Tổng Quan Các Nghiên Cứu Trước Về Các Yếu Tố Tác Động Đến Khả Sinh Lời Và Chấp Nhận Rủi Ro Của Ngân Hàng.


Hệ số Lạm phát CPI phản ánh rằng một phần lợi nhuận do lạm phát kỳ vọng thông qua thu nhập từ phao ngân hàng và có ưu tiên là một hiệu ứng tích cực.


Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Năm 2010 đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng, góp phần dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới. Từ đó ta thấy được khả năng sinh lời của ngân hàng có độ nhạy cảm rất lớn đối với sự biến đổi của chu kỳ kinh tế. Và từ đó chúng ta có thể đánh giá được sự tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng thông qua mối quan hệ tương quan thuận giữa một nền kinh tế với chu kỳ tăng trưởng hiệu quả, thì sẽ tạo ra nhiều cơ hội lợi thế hơn cho khả năng sinh lời của NHTM và ngược lại. Và đối với nền kinh tế Việt Nam khi mà hệ thống NHTM là một trung gian tài chính nên ảnh hưởng của Ngân hàng đến nền kinh tế thông qua khả năng sinh lời là cực kỳ nhạy cảm.


Lạm phát: Lạm phát cũng phản ánh các khía cạnh của chu kỳ kinh doanh. Nói chung, bằng chứng thực nghiệm khẳng định lạm phát có tác động tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng, nhưng hệ số này rất khó để giải thích. Demirgüç Kunt và Huizinga (1999), ví dụ, tìm một mối quan hệ tích cực giữa lạm phát và lãi ròng, đưa ra cách giải thích nếu lạm phát cao sẽ làm thu nhập cao hơn cho ngân hàng. Bên cạnh đó, vì các nhà hoạch định chính sách chỉ có lãi suất danh nghĩa trong tay, lạm phát là yếu tố quyết định lãi suất thực thu được. Thực tế, lạm phát có tác động trực tiếp và gián tiếp đến khả năng sinh lời.


Các lý thuyết xung đột tồn tại và cho một cuộc thảo luận đầy đủ Perry (1992), mục đích của bài báo này là để lại giả thuyết cho các bài báo trong tương lai về ảnh hưởng của lạm phát đến doanh thu, chi phí ngoài lãi và về khả năng sinh lợi thực sự của các ngân hàng. Giả thiết sau này cho thấy quan điểm hợp lý nhưng có thể tranh luận rằng thực tế khi điều chỉnh theo lạm phát thì doanh thu và chi phí ngoài lãi không liên quan đến thay đổi giá. Các cuộc thảo luận tập trung vào tác động của lạm phát đối với các ngân hàng, thay vì những gì đã ảnh hưởng đến các ngân hàng trong các đợt tăng cụ thể. Vì vậy, bài viết tóm tắt từ các sự kiện như tăng cạnh tranh


giữa các ngân hàng và thay đổi quy định mà làm ảnh hưởng đến kết quả của ngân hàng, vì các sự kiện như vậy chứ không nhất thiết phải do lạm phát mà ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Từ đó họ bắt đầu với việc xem xét các tài liệu kinh tế và các lý thuyết tổng quan chính của nó. Sau đó chỉ ra những lý thuyết này là trường hợp đặc biệt của một cách tiếp cận phong phú hơn mà các yếu tố chính là tỷ lệ thay đổi kỳ vọng và tốc độ điều chỉnh danh mục đầu tư. Lý thuyết phong phú hơn là nền tảng cho nghiên cứu trong tương lai. Ảnh hưởng của lạm phát đến lợi nhuận ngân hàng thực sự đã được thảo luận rộng rãi trong các tài liệu kinh tế và tài chính. Alchian và Kessel (A-K) (1992) cho rằng các ngân hàng là chủ nợ tiền tệ thuần (nghĩa là tài sản danh nghĩa của ngân hàng lớn hơn các khoản nợ danh nghĩa). Giá tăng sau đó sẽ làm giảm giá trị tài sản danh nghĩa của họ nhiều hơn giảm giá trị của các khoản nợ danh nghĩa của họ. Do đó, các ngân hàng sẽ mất lợi nhuận trong giai đoạn lạm phát.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.


Môi trường lãi suất: Là lãi suất ngắn hạn, chúng tôi lấy lãi suất tiền gửi 3 tháng liên tục trên thị trường. Dự kiến lãi suất giảm thì sẽ làm lợi nhuận của ngân hàng suy giảm và tăng rủi ro.

Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và chấp nhận rủi ro tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 4


Người ta cho rằng tác động của lãi suất đối với khả năng sinh lời và chấp nhận rủi ro của ngân hàng sẽ cao hơn khi tỷ lệ lãi suất thấp. Những mối quan hệ này là kết quả nghiên cứu bằng cách lấy căn bậc hai của lãi suất ngắn hạn, do đó dự kiến sẽ có một hệ số âm. Với lãi suất dài hạn, tác giả lấy lãi suất trái phiếu chính phủ 10 năm. Bằng cách này, chúng ta có thể đánh giá độ dốc đường cong lợi suất, như xấp xỉ bởi sự khác biệt giữa lãi suất dài hạn và ngắn hạn.

Tương tự, theo Alessandri và Nelson (2015), chúng tôi mong đợi một hiệu ứng tích cực về lợi nhuận và tác động tiêu cực đến rủi ro. Các biến lãi suất được xem xét theo các thuật ngữ danh nghĩa, bởi vì chỉ số này được kiểm soát bởi các ngân hàng trung ương.


2.3. Tổng quan các nghiên cứu trước về các yếu tố tác động đến khả sinh lời và chấp nhận rủi ro của ngân hàng.

2.3.1. Nghiên cứu trên thế giới


(1) Altunbas, Y., Gambacorta, L., & MarquesIbanez, D. (2010). Bài viết này điều tra sự tương tác giữa rủi ro ngân hàng và lãi suất ngắn hạn. Dữ liệu của bài được lấy từ bảng cân đối hàng quý của các ngân hàng trong giai đoạn 10 năm tại Hoa Kỳ và khu vực Liên minh châu Âu, tìm thấy bằng chứng cho thấy trong một thời kỳ lãi suất thấp bất thường và kéo dài sẽ làm rủi ro của các ngân hàng tăng lên.

(2) Bolt, W., de Haan, L., Hoeberichts, M., Van Oordt, M. R. C., & Swank, J. (2012). Nghiên cứu về khả năng sinh lời của ngân hàng trong giai đoạn suy thoái. Bài viết này ước tính mối quan hệ giữa suy thoái kinh tế và lợi nhuận của ngân hàng bằng cách sử dụng mô hình lý thuyết có tính đến lịch sử cho vay của ngân hàng cũng như khấu hao và lỗ trên dư nợ. Bài viết tập trung vào tổng lợi nhuận ngân hàng và các thành phần của nó: thu nhập lãi ròng, thu nhập khác, và trích lập dự phòng cộng với các chi phí khác. Sử dụng dữ liệu tổng thể cũng như riêng lẻ của từng ngân hàng, kết quả nhận định rằng lợi nhuận của ngân hàng theo chu kỳ kinh doanh là mạnh mẽ hơn cho các cuộc suy thoái sâu hơn trong những ngày nhẹ. Và tìm thấy bằng chứng rằng cứ mỗi phần trăm thu hẹp GDP thực trong thời gian suy thoái nghiêm trọng sẽ dẫn đến giảm 0,24% lợi nhuận trên tài sản ngân hàng.


(3) Nghiên cứu của Shehzad, C. T., De Haan, J., & Scholtens, B. (2013) sử dụng mô hình bảng điều khiển cho hơn 15.000 ngân hàng từ 148 quốc gia từ năm 1988 đến năm 2010, điều tra sự tương tác giữa kích thước, tăng trưởng và khả năng tạo ra lợi nhuận của các ngân hàng. Và kết luận rằng sự thay đổi về khả năng tạo ra lợi nhuận của ngân hàng độc lập với mức độ biến thiên của tăng trưởng quy mô ngân hàng. Tuy nhiên, ở các nước có thu nhập cao của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) các ngân hàng có quy mô lớn hơn phát triển chậm hơn nhưng có nhiều lợi nhuận cao hơn so với các ngân hàng có quy mô nhỏ. Trong khi tăng


trưởng ngân hàng không liên tục xảy ra, nhưng khả năng sinh lời của ngân hàng là dai dẳng. Cuối cùng, bài nghiên cứu khẳng định rằng tăng trưởng quy mô ngân hàng không có tác động tới khả năng sinh lời của ngân hàng.


(4) James Ayodele Owoputi, (2014) nhằm tìm ra các nhân tố tác động đến khả năng tạo ra lợi nhuận của các ngân hàng Nigeria trong suốt giai đoạn 1998- 2012, sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên. Các phát hiện cho thấy sự tồn tại tác động tích cực đáng kể của an toàn vốn, quy mô ngân hàng, tăng trưởng năng suất và lợi nhuận tiền gửi. Rủi ro tín dụng và tỷ lệ thanh khoản có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận ngân hàng. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào chứng minh được sự hỗ trợ của các biến số cụ thể về hiệu quả của công nghiệp. Nói chung, như mong đợi, lạm phát và lãi suất có ảnh hưởng ngược chiều một cách đáng kể đến khả năng sinh lời của ngân hàng.


(5) Susan Moraa Onuonga (2014) điều tra tác động của các yếu tố nội tại của ngân hàng đến khả năng tạo ra lợi nhuận của 6 NHTM tại Kenya từ 2008 đến 2013 sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu (Least square) từ bảng dữ liệu thứ cấp do NHTW Kenya phát hành và các chỉ số phát triển ngành của Ngân hàng thế giới để xác định tác động của tài sản, vốn, cho vay, tiền gửi và chất lượng tài sản đến lợi nhuận ngân hàng. Để đo lường lợi nhuận ngân hàng trong bài này tác giả sử dụng chỉ số ROA và cho thấy lợi nhuận ngân hàng và ROA có mối quan hệ tương tác đáng kể. Tác giả đề nghị Chính phủ Kenya nên có chính sách khuyến khích các NHTM để tăng tài sản và vốn để nâng cao hiệu quả ngành ngân hàng, nên đầu tư vào các công nghệ và kỹ năng quản lý, giảm thiểu chi phí hoạt động sẽ tác động tích cực đến sự tăng trưởng và tồn tại.


(6) Alessandri, P., & Nelson, B. D. (2015). Bài viết này góp phần cung cấp tài liệu về sự tương tác giữa lợi nhuận của ngân hàng và hoạt động kinh tế. Khi nghiên cứu về lợi nhuận ngân hàng với hoạt động kinh tế trong thời gian suy thoái sâu, nhận thấy có tác động lớn hơn so với giai đoạn kinh tế ổn định. Trong số các


thành phần khác nhau của lợi nhuận ngân hàng, khoản lỗ cho vay là động lực chính của kết quả này. Bài nghiên cứu cũng tìm thấy lãi suất dài hạn trong những năm trước là nhân tố quan trọng tạo ra lợi nhuận trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao.


(7) Borio, C., Gambacorta, L., & Hofmann, B. (2015). Bài viết này điều tra chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng, sử dụng dữ liệu cho 109 ngân hàng quốc tế lớn có trụ sở tại 14 nền kinh tế tiên tiến lớn trong giai đoạn 1995–2012. Nhìn chung, tác giả đã tìm thấy một mối quan hệ tương quan cùng chiều giữa các cấp lãi suất ngắn hạn và độ dốc của đường cong lợi suất, một mặt khác là về lợi nhuận của ngân hàng. Từ đó thấy được chiều hướng tích cực đến thu nhập nhưng lại tiêu cực về các khoản thu nhập lãi và cho vay khi có sự tác động của lãi suất. Chúng tôi cũng thấy rằng khi mức lãi suất thấp hơn thì hiệu quả sẽ cao hơn và độ dốc ít dốc, tức là không có tuyến tính.


(8) Narwal and Pathneja (2016), Mục đích của bài báo này là để phân tích ảnh hưởng của các biến liên quan đến ngân hàng và các biến liên quan đến quản trị doanh nghiệp về năng suất và thu nhập tại các ngân hàng tư nhân và nhà nước ở Ấn Độ. Phân tích hồi quy được sử dụng để đánh giá hiệu quả của các biến liên quan đến quản lý và hiệu suất của các ngân hàng khác nhau. Hai biến quản trị và thù lao giải thích khả năng sinh lời của các ngân hàng nhà nước và chỉ tính nhị nguyên mới giải thích cho các ngân hàng tư nhân. Không có ý nghĩa nào giữa các biến năng suất và quản trị. Sự độc đáo của bài viết là chưa có bài viết nào đánh giá sự hiệu quả của các biến này lên năng suất và khả năng tạo ra lợi nhuận của các ngân hàng cùng một lúc.


(9) Mehmet Sabri Topak và Nimet Hulya Talu (2017) nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng từ tháng 01/2005 đến tháng 9/2015 của 10 ngân hàng thương mại trên BIST Banks Index Turkey. Theo kết quả thực nghiệm, các yếu tố cụ thể của ngân hàng, như tỷ lệ lãi cho vay so với lãi tiền gửi (ILID), được sử dụng như là biên lãi ròng, tỷ lệ phí ròng và doanh thu hoa hồng trên tổng chi phí hoạt động (FCE) và


quy mô (SIZE) có ảnh hưởng tích cực lợi nhuận được thể hiện bằng ROA và ROE. Mặt khác, tỷ lệ cho vay không phù hợp với tổng dư nợ (NPL) được coi là rủi ro tín dụng và an toàn vốn (ESA) và tỷ lệ chi phí hoạt động khác trên tổng doanh thu hoạt động (OEI), có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận. Kết quả nổi bật nhất là trong số tất cả các biến số cụ thể, OEI có tác động mạnh nhất đến lợi nhuận. Phát hiện này phù hợp với thực tế là do các ngân hàng bị hạn chế trong việc xác định lãi suất, họ không kiểm soát được mức doanh thu lãi ròng. Do đó, tiết kiệm chi phí hoạt động là một lựa chọn khả thi hơn trong việc tăng lợi nhuận. Đối với các biến số kinh tế vĩ mô, GDP thực tế và lãi suất có chiều hướng ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận trong khi tỷ giá hối đoái có tác động tiêu cực.


(10) Eissa A. Al-Homaidi, Mosab I. Tabash, Najib H. S. Farhanand Faozi

A. Almaqtari (2018), đánh giá các nhân tố tác động tới lợi nhuận của các NHTM tại Ấn Độ. Khả năng sinh lời của các ngân hàng Ấn Độ được đo lường bằng ba biến quan trọng là Lợi nhuận trên tài sản (ROA), Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và Tỷ lệ lãi ròng (NIM). Nghiên cứu cũng sử dụng các biến độc lập bao gồm quy mô ngân hàng, chất lượng tài sản, an toàn vốn, thanh khoản, năng suất hoạt động, tiền gửi, đòn bẩy tài chính, quản lý tài sản và số lượng chi nhánh. Nghiên cứu sử dụng phương pháp (GMM) được xây dựng trên bảng dữ liệu của 10 năm cho hơn 60 ngân hàng thương mại của Ấn Độ. Nghiên cứu cũng tính đến Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tỷ lệ lạm phát, lãi suất và tỷ giá hối đoái là yếu tố vĩ mô. Kết quả thấy rằng tất cả các yếu tố đặc thù của ngân hàng, ngoại trừ số lượng chi nhánh, tác động đáng kể đến lợi nhuận được đo bằng NIM. Các yếu tố vĩ mô được sử dụng trong nghiên cứu đều có ý nghĩa với tác động tiêu cực đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Ấn Độ. Hơn nữa, quy mô ngân hàng, số lượng chi nhánh, tỷ lệ quản lý tài sản và đòn bẩy tài chính là các biến có khả năng tạo ra lợi nhuận cao trong bối cảnh các NHTM Ấn Độ được đo bằng ROA. Các kết quả cung cấp một cái nhìn sâu sắc hơn về ngành ngân hàng Ấn Độ và các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của nó.


(11) Fakhri J. Hasanov, Nigar Bayramliand Nayef Al-Musehel (2018) xem xét các nhân tố tác động tới lợi nhuận ngân hàng tại Azerbaijan, một nền kinh tế phụ thuộc vào dầu trong quá trình chuyển đổi. Tác giả kết luận quy mô ngân hàng, vốn và các khoản vay, cũng như chu kỳ kinh tế, lạm phát kỳ vọng và giá dầu có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến lợi nhuận. Trong khi tiền gửi, rủi ro thanh khoản và mất giá tỷ giá có tác động tiêu cực đến lợi nhuận. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng lợi nhuận ngân hàng chịu sự tác động của đặc thù của quốc gia, việc bỏ qua các đặc tính quốc gia có thể dẫn đến sai lệch trong ước tính.


2.3.1. Nghiên cứu trong nước


(1) Trịnh Quốc Trung, Nguyễn Văn Sang (2013), tác giả bài viết dựa trên số liệu của 39 NHTM Việt Nam từ 2005-2012 và sử dụng mô hình hồi quy Tobit để chỉ ra rằng, ROE và ROA chịu ảnh hưởng tiêu cực từ tỷ lệ nợ xấu, tổng chi phí hoạt động trên doanh thu. Tỷ lệ cho vay so với tổng tài sản càng cao thì khả năng sinh lời của ngân hàng càng cao, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản tăng thì làm ROA tăng nhưng làm ROE giảm.


(2) Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015), nghiên cứu mối quan hệ giữa đa dạng hoá thu nhập nói riêng và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam nói chung. Bài viết sử dụng số liệu của 22 NHTM Việt Nam từ 2007-2013 cùng với phương pháp nghiên cứu dữ liệu bảng ước lượng SGMM đã cho thấy mối quan hệ tương quan cùng chiều là lạm phát, tỷ lệ dư nợ cho vay/tổng tài sản,chỉ số đa dạng hoá thu nhập, tỷ lệ tiền gửi khách hàng. Trong khi đó, các yếu tố có tác động ngược chiều đến lợi nhuận là tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản,tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập. Bên cạnh đó, quy mô tổng tài sản và GDP không tìm thấy mối quan hệ tương quan đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam.


(3) Nguyễn Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Ngọc Hương (2015), tác giả sử dụng hồi quy bảng kết hợp với số liệu lấy từ báo cáo kiểm toán của 27 NHTMCP Việt


Nam từ 2008- 2013 để chỉ ra rằng quy mô ngân hàng, cho vay, rủi ro tín dụng, vốn chủ sở hữu có mối quan hệ thuận chiều với thu nhập lãi cận biên của ngân hàng. Còn hiệu quả quản lý và GDP có ảnh hưởng tiêu cực đến NIM.


(4) Nguyễn Phạm Nhã Trúc & Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016), bài viết sử dụng dữ liệu của 28 NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2002 đến 2013 và bằng mô hình hồi quy tuyến tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả ROA và ROE chịu tác động của chỉ số quy mô ngân hàng và chi phí hoạt động mang chiều hướng tích cực, nhưng vốn chủ sở hữu thì cùng chiều đến ROA, nhưng ngược chiều với ROE. Quy mô cho vay không tìm thấy bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ với lợi nhuận của ngân hàng. Các yếu tố vĩ mô (lạm phát, tăng trưởng GDP) đều có ảnh hưởng tích cực đến ROA và ROE.


(5) Nguyễn Thị Thu Hiền (2017), để xác định khả năng phát triển và hoạt động ổn định của ngân hàng, tác giả dựa vào một chỉ số quan trọng đó là khả năng sinh lời của ngân hàng. Tác giả phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số ROA, ROE của các NHTM Việt Nam từ 2006-2015. Nghiên cứu đã tìm thấy kết quả các yếu tố có quan hệ tương quan thuận với khả năng sinh lời của ngân hàng là chỉ số cho vay trên tổng tài sản, chi phí lãi vay và dự phòng rủi ro tín dụng, đa dạng hóa. Còn nợ xấu, chi phí hoạt động và quy mô ngân hàng có mối quan hệ nghịch với lợi nhuận. Kết quả không tìm thấy mối tương quan giữa cơ cấu vốn, quản lý rủi ro thanh khoản, kiểm soát chi phí có tác động đến lợi nhuận của ngân hàng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/04/2024