hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Quyết định số 2212/2013/QĐ- CTN về việc gia nhập Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin và Quyết định số 2213/2013/QĐ-CTN về việc gia nhập Công ước quốc tế về trừng trị việc khủng bố bằng bom năm 1997, theo Thông báo số 11/2014/TB-LPQT ngày 10/02/2014 của Bộ Ngoại giao về việc điều ước quốc tế có hiệu lực, hai Công ước này có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 08/02/2014. Nội luật hóa các quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập đã được xác định trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã được Chính phủ thông qua.
Đối chiếu với các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về khủng bố và nghĩa vụ nội luật hóa các hành vi khủng bố theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có thể thấy rằng về cơ bản pháp luật Việt Nam khá tương thích với các điều ước quốc tế về khủng bố. Ví dụ như:
- Công ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay năm 1970 quy định người ở trên máy bay đang bay bị coi là thực hiện tội phạm nếu:
(a) sử dụng vũ lực đe dọa dùng vũ lực, hoặc bằng bất kỳ hình thức đe dọa nào khác để chiếm giữ hoặc kiểm soát máy bay một cách bất hợp pháp, hoặc thực hiện chưa đạt bất kỳ hành vi nào như vậy;
(b) đồng phạm với một người thực hiện hoặc thực hiện chưa đạt bất kỳ hành vi nào như trên;
Đối chiếu với Bộ luật hình sự hiện hành có thể thấy rằng, có thể áp dụng Điều 221 “Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy” để xử lý hành vi nêu trên.
- Công ước về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng năm 1971 quy định một người bị coi là thực hiện tội phạm nếu người đó thực hiện một cách cố ý và bất hợp pháp các hành vi sau:
(a) Thực hiện hành vi bạo lực chống lại người ở trên một máy bay đang bay, nếu hành vi đó có thể gây nguy hiểm cho an toàn của máy bay đó; hoặc
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Và Dấu Hiệu Pháp Lý Của Tội Tài Trợ Cho Khủng Bố Quy Định Tại Điều 230B Bộ Luật Hình Sự Năm 1999 (Sửa Đổi, Bổ Sung Năm 2009)
- Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự Việt Nam - 9
- Hoàn Thiện Các Quy Định Của Bộ Luật Hình Sự Năm 1999 (Sửa Đổi, Bổ Sung Năm 2009) Về Các Tội Phạm Khủng Bố
- Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự Việt Nam - 12
- Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
(b) Phá hủy máy bay đang khai thác hoặc làm hỏng máy bay đó khiến cho máy bay đó không thể bay hoặc có thể gây nguy hiểm cho an toàn của máy bay trong khi bay; hoặc
(c) Đặt hoặc chỉ đạo đặt vào máy bay đang khai thác, dù bằng bất kỳ phương thức nào, thiết bị hoặc chất có thể phá hủy máy bay đó, hoặc để làm hỏng máy bay đó khiến nó không thể bay, hoặc có thể gây nguy hiểm cho an toàn của máy bay đang bay; hoặc
(d) Phá hủy hoặc làm hỏng thiết bị không lưu hoặc can thiệp vào hoạt động của các thiết bị đó, nếu bất kỳ hành vi nào như vậy có thể gây nguy hiểm cho an toàn của máy bay đang bay; hoặc
(e) Chuyển thông tin mà người đó biết là sai, gây nguy hiểm cho an toàn của máy bay đang bay.
Đối chiếu với quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì có thể áp dụng các điều sau để xử lý các hành vi nêu trên: Tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay (Điều 216); Tội cản trở giao thông đường không (Điều 217); Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn (Điều 218); Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường không (Điều 219); Tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam (Điều 222).
- Nghị định thư về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế năm 1988, bổ sung Công ước Mông-trê-an năm 1971 về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng quy định một người bị coi là thực hiện một tội phạm nếu người đó sử dụng một cách bất hợp pháp và cố ý bất kỳ thiết bị, chất hoặc vũ khí nào, để:
(a) Thực hiện một hành vi bạo lực chống lại một người tại cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế, làm cho người đó hoặc có thể làm cho người đó bị thương nặng hoặc bị chết; hoặc
(b) Phá huỷ hoặc làm hư hỏng nặng các phương tiện của cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế hoặc máy bay chưa khai thác đô tại cảng hàng không đó hoặc làm gián đoạn các dịch vụ của cảng hàng không đó.
Nếu một hành vi như vậy gây nguy hiểm hoặc có thể gây nguy hiểm cho an toàn tại cảng hàng không đó.
Đối chiếu với các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì có thể áp dụng Điều 217 “Tội cản trở giao thông đường không” để xử lý các hành vi nêu trên.
Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật hình sự Việt Nam khá tương thích với các điều ước quốc tế về khủng bố mà Việt Nam đã tham gia. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn thi hành các tội nêu trên để áp dụng thống nhất trên thực tế.
Đồng thời, qua nghiên cứu các vụ khủng bố quốc tế và hoạt động của một số tổ chức khủng bố quốc tế có thể nhận diện hoạt động của tổ chức khủng bố thông qua các bước: tuyển mộ, huấn luyện, lựa chọn mục tiêu, lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch… Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam chưa hình sự hóa các hành vi tuyển mộ, huấn luyện, chứa chấp các phần từ khủng bố. Do đó, chúng tôi đề nghị:
- Cần nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các tội liên quan đến khủng bố;
- Tiếp tục nghiên cứu để hình sự hoá các hành vi tuyển mộ, huấn luyện, chứa chấp các phần tử khủng bố.
Ba là, xây dựng một chương về các tội phạm khủng bố
Hiện nay, Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định 03 tội danh khủng bố. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự còn có các điều luật quy định về các tội phạm khác có liên quan như các hành vi xâm phạm an toàn hàng không, hàng hải; sử dụng, mua bán trái phép các vũ khí, vật liệu nổ…
Các hành vi trong lĩnh vực an toàn và an ninh hàng không dân dụng
Bộ luật Hình sự có ba điều quy định về tội cản trở giao thông đường không (Điều 217), tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221) và tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 222) nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng và tài sản trong lĩnh vực giao thông đường không.
Các hành vi trong lĩnh vực an toàn và an ninh hàng hải
Bộ luật Hình sự có 04 điều luật quy định về các tội phạm có liên quan đến lĩnh vực này, đó là tội cản trở giao thông đường thủy (Điều 213), tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221), tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam (Điều 223) và tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231).
Các hành vi trong lĩnh vực quản lý vũ khí, vật liệu nổ
Bộ luật Hình sự có 09 điều luật quy định về các tội phạm có liên quan đến lĩnh vực này, bao gồm tội chế tạo, vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 230), tội chế tạo vận chuyển, sử dụng, tàng trữ, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ (Điều 232), tội chế tạo vận chuyển, sử dụng, tàng trữ, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ và công cụ hỗ trợ (Điều 233), tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ (Điều 234), tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu
quả nghiêm trọng (Điều 235), tội chế tạo vận chuyển, sử dụng, tàng trữ, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ (Điều 236), tội vi phạm quy định vê quản lý chất phóng xạ (Điều 237), tội chế tạo vận chuyển, sử dụng, tàng trữ, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc (Điều 238) và tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc (Điều 239).
Các hành vi khác được sử dụng cho mục đích khủng bố
Bộ luật Hình sự có 05 điều quy định trong lĩnh vực này, đó là tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 250), tội rửa tiền (Điều 251), tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 266), tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 267), tội xuất cảnh nhập cảnh trái phép, tội ở lại Việt Nam trái phép (Điều 274) và tội che giấu tội phạm (Điều 313).
Như vậy, các tội phạm về khủng bố và liên quan đến khủng bố nằm rải rác ở nhiều điều, trong nhiều chương khác nhau của Bộ luật hình sự. Chúng tôi thấy rằng, cần nghiên cứu, xây dựng một chương riêng về khủng bố trong Bộ luật hình sự. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thống nhất các quy định về khủng bố trong luật hình sự và đáp ứng được đầy đủ yêu cầu nội luật hóa các hành vi khủng bố theo các điều ước quốc tế về khủng bố mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về các tội khủng bố trong tình hình hiện nay
3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật cho nhân dân
Để nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm khủng bố ở Việt Nam trong thời gian tới cần đẩy mạnh công tác giáo dục, phổ biến, hướng dẫn, tuyên truyền các văn bản pháp luật, các điều ước quốc tế về
các tội phạm khủng bố để mọi cán bộ, công chức nhà nước và nhân dân hiểu được tầm quan trọng của những quy định này, từ đó có cách hiểu thống nhất và vận dụng đúng đắn trong quá trình nghiên cứu, học tập và trực tiếp làm công tác có liên quan đến đấu tranh phòng, chống các tội phạm khủng bố.
Khủng bố diễn ra dưới nhiều hình thức với thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Các cá nhân, tổ chức khủng bố thường lợi dụng sự kém hiểu biết của đồng bào dân tộc thiểu số trong nước để lôi kéo, dụ dỗ và kích động thực hiện các hành vi chống lại chính quyền nhân dân Vì vậy, để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tội phạm khủng bố cho người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số các khu vực đặc biệt quan trọng như Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Nâng cao nhận thức đúng đắn cho người dân về tính chất nguy hiểm của hoạt động khủng bố, âm mưu, thủ đoạn của những cá nhân, tổ chức khủng bố; nắm vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta về phòng, chống khủng bố;
- Tạo thuận lợi cho nhân dân tham gia xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật liên quan đến phòng, chống khủng bố nói riêng. Việc tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào dự án luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật rất lớn và có hiệu quả. Thông qua lấy ý kiến vào quá trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, ý thức về trách nhiệm pháp lý và khả năng tiến hành các hành vi pháp lý đúng đắn, chính xác. Đồng thời, qua hoạt động này, sẽ giúp cho nhân dân nâng cao ý thức pháp luật. Như vậy, mọi người sẽ hiểu được về giá trị xã hội và pháp luật. Có thể nói, thái độ chấp hành hay không chấp hành của người dân đối với pháp luật là kết quả của sự am hiểu pháp luật. Mặt khác cũng thấy rằng con người chấp hành pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh một khi họ có thái độ đúng đắn đối với pháp luật.
- Cung cấp đầy đủ, có hệ thống thông tin pháp luật về các tội phạm khủng bố trong luật hình sự nói riêng và phòng, chống khủng bố nói chung đến tất cả nhân dân trong cả nước. Bên cạnh việc thực hiện có hiệu quả các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật truyền thống, cần quan tâm khai thác có hiệu quả các văn bản pháp luật cập nhật, lưu trữ trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ, mạng Internet. Đồng thời, hình thành các cơ quan đầu mối làm nhiệm vụ cung cấp thông tin pháp luật Việt Nam phục vụ nhu cầu trong nước, trong khu vực và trên thế giới phù hợp với những cam kết của Việt Nam về minh bạch hóa pháp luật, trao đổi thông tin pháp luật.
3.2.2. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, Tòa án với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trong việc phát hiện, xử lý, cải tạo, giáo dục người phạm tội
Mục đích của hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) là nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội. Giáo dục phạm nhân trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc xử sự trong cuộc sống xã hội, không phạm tội mới, vi phạm pháp luật và giúp họ tái hòa nhập cộng đồng là mục đích cuối cùng của công tác thi hành án hình sự. Đặc biệt là những người phạm tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, bởi lẽ, trên thực tế các vụ khủng bố xảy ra ở Việt Nam, các đối tượng thực hiện hành vi khủng bố chủ yếu là các thành viên trong các tổ chức phản động lưu vong người Việt như tổ chức Chính phủ Việt Nam tự do, Liên đảng cách mạng Việt Nam, Việt Tân… Đây là những đối tượng có tư tưởng chống đối Nhà nước ta rất rõ rệt, chúng tiến hành các hành vi khủng bố nhằm lật đổ chính quyền, lập chính phủ lâm thời hoặc gây mất ổn định chính trị, phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Vì vậy, để giáo dục, cải tạo, chuyển hóa những đối tượng này là công tác đặc biệt khó khăn; phải tạo cho họ niềm tin vào chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Để làm được điều này, có thể thực hiện các công tác sau:
- Trong thời gian chấp hành án phạt tù, phạm nhân thường xuyên được học pháp luật, giáo dục công dân, phổ biến thông tin thời sự, chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ đó, giúp cho họ có niềm tin vào chế độ, nhận thức được hành vi phạm tội của mình và cải tạo tốt trong thời gian chấp hành án.
- Trong công tác giáo dục cải tạo, khơi dậy khát vọng hoàn lương, hướng thiện cho phạm nhân là việc làm rất quan trọng, góp phần hình thành nhân cách tích cực cho họ. Để đạt được mục đích này, cơ quan thi hành án phải tạo ra các hình thức giáo dục mới, tạo sân chơi mới mang tính giáo dục sâu sắc.
- Thực hiện Nghị định số 80/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù, Bộ Công an đã chỉ đạo các trại giam tổ chức thực hiện nghiêm túc. Tại các trại giam, khi sắp hết thời hạn chấp hành án phạt tù, phạm nhân được học và củng cố những kiến thức cần thiết về pháp luật, tâm lý, nghề nghiệp, được thông tin về tình hình kinh tế - xã hội. Công an địa phương đến các trại giam để rà soát và cấp giấy chứng minh nhân dân cho số phạm nhân chưa có hoặc đã bị mất; tư vấn và giải quyết khó khăn về nơi cư trú; phối hợp liên hệ, tìm kiếm việc làm cho số có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Nhằm nâng cao kiến thức pháp luật, khả năng tự giải quyết khó khăn, vướng mắc trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng, các cơ quan, ban ngành và đoàn thể phải hợp tác về phổ biến, giáo dục, tư vấn pháp luật, hỗ trợ cho phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù và người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng.