Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Nhld Việt Thái


với việc dễ dàng gặp phải những rủi ro đặc trưng của ngành ngân hàng là rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất… Tuy nhiên NHLD Việt Thái lại vừa đối mặt với tình trạng lợi nhuận khiêm tốn vừa gặp phải rủi ro tín dụng khi tỷ lệ nợ xấu ngày càng tăng cao. Bên cạnh đó, mặc dù vẫn duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thỏa yêu cầu của NHNN là trên 9% nhưng việc tỷ lệ này trong những năm qua đều trên 40% đã đặt ra một sự hoài nghi về hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Nói một cách khác, hiệu quả đòn bẩy của ngân hàng là rất thấp khi vốn tự có chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn. Mặt khác, cơ cấu tài sản trên bảng cân đối cho thấy ngân hàng hầu như không có một kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả và đa dạng hóa danh mục đầu tư để mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Các hình thức đầu tư của NHLD Việt Thái chỉ đơn thuần là mua trái phiếu nhằm mục đích tái chiết khấu tại NHNN để chuyển đổi từ nguồn USD sang VND để cho vay hay nhằm bảo đảm cho hạn mức của hoạt động thanh toán điện tử liên ngân hàng Citad. Có thể nói danh mục đầu tư của NHLD Việt Thái đã quá an toàn trong khi doanh số cho vay ngày càng giảm sút, tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn ngày càng tăng qua các năm dẫn đến lợi nhuận ngày càng sụt giảm. Như vậy, mối quan hệ giữa vấn đề lợi nhuận và rủi ro tại NHLD Việt Thái có thể khái quát như sau: có một sự thận trọng trong lựa chọn danh mục đầu tư, các chỉ tiêu an toàn vốn, tính thanh khoản được đảm bảo nhưng rủi ro tín dụng tăng nhanh, quản trị chi phí kém, khả năng huy động vốn và cho vay sụt giảm đã khiến cho lợi nhuận của ngân hàng trong những năm qua dường như không đáng kể khi so sánh với các NHTM khác. Và đây cũng là những gợi ý ban đầu giúp tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHLD Việt Thái trong thời gian qua.

2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHLD Việt Thái

2.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHLD Việt Thái qua các chỉ số tài chính và một số nhân tố định tính khác

Phần phân tích về thực trạng hoạt động kinh doanh của NHLD Việt Thái cho thấy các mặt hoạt động của NHLD Việt Thái còn bộc lộ nhiều hạn chế. Việc tìm ra những hạn chế là hết sức quan trọng, bởi lẽ chỉ có vậy chúng ta mới có thể thấy


được đâu là những nguyên nhân làm giảm hiệu quả hoạt động của NHLD Việt Thái và từ đó khái quát chúng lên thành những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHLD Việt Thái.

Như đã trình bày tại chương 1, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM được chia ra thành hai nhóm nhân tố là nhân tố bên trong và bên ngoài. Vậy những nhận định được đưa ra đã có thể làm bật lên các nhân tố đó hay chưa? Thực tế điều này cần sự phân tích sâu hơn để tìm ra căn nguyên của vấn đề.

Có lẽ các nhân tố bên trong xuất phát từ chính thực lực tài chính, chính sách, năng lực quản lý … của ngân hàng nên được xem xét trước tiên. Xét về năng lực tài chính thì vấn đề tồn tại đầu tiên ta không thể không nhắc đến đó chính là việc NHLD Việt Thái vẫn chưa tăng đủ vốn điều lệ theo quy định của NHNN VN. Tuy tỷ lệ an toàn vốn tổi thiểu của ngân hàng qua các năm phân tích luôn cao hơn quy định của NHNN là 9% nhưng ta không thể chỉ dựa trên điều này để khẳng định tình hình vốn của NHLD Việt Thái là an toàn, mặt khác tỷ lệ này đang có xu hướng giảm từ năm 2010 đến nay. NHLD Việt Thái đã tồn tại trong điều kiện mà vốn điều lệ chỉ là 61 triệu USD từ năm 2009 cho đến nay trong khi các NHTM khác đều đã hoàn thành lộ trình tăng vốn của mình từ rất sớm, điều này cho thấy năng lực tài chính của ngân hàng quả thật quá nhỏ bé trong cạnh tranh gay gắt này. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHLD Việt Thái là hệ quả của sự tác động từ nhiều nhân tố khác nhau nhưng nguyên nhân đầu tiên không thể bỏ qua đó chính là năng lực tài chính của chính ngân hàng và đây là trở ngại và là mục tiêu lớn nhất mà NHLD Việt Thái phải vượt qua và hoàn tất nhanh chóng để nâng quy mô tổng tài sản của ngân hàng lên cao hơn bên cạnh việc kết hợp với một chính sách sử dụng vốn an toàn và hiệu quả.

Tiếp theo, chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cho thấy hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng tăng khá ổn định qua các năm và đặc biệt thời điểm năm 2011 và 2012 hiệu suất sử dụng vốn được nâng cao vượt lên mức 98.48% và 101.64%. Nếu chỉ dừng lại ở việc xem xét con số tương đối mà chỉ tiêu này cung cấp thì ta sẽ dễ dàng đi đến kết luận rằng NHLD Việt Thái trong các năm qua đã sử dụng vốn rất hiệu


xác, điều này không những làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng mà còn làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng và lòng tin của khách hàng. Điều này được minh chứng rò qua con số tỷ lệ nợ xấu của NHLD Việt Thái qua các năm gần đây, khi mà tỷ lệ này liên tục tăng với tốc độ tăng nhanh chóng: từ 2.08% năm 2010 đã tăng đột biến lên 9,22% trong năm 2012. Song song với đó là sự sụt giảm nghiêm trọng của chỉ số ROA và ROE trong năm 2012 chỉ là 0.06% và 0.17%. Điều này cho thấy chất lượng tín dụng và trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần tạo thu nhập bền vững cho ngân hàng và từ đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn ngân hàng.

Về hoạt động huy động vốn, tuy NHLD Việt Thái luôn nỗ lực tập trung huy động vốn từ khách hàng nhưng tổng số dư huy động không cao, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Cụ thể từ năm 2010 vốn huy động của ngân hàng đã giảm từ 184.03 triệu USD xuống còn 121.53 triệu USD vào năm 2012. Nguyên nhân là do NHLD Việt Thái chưa có các sản phẩm tiền gửi đa dạng kèm với các dịch vụ tiện ích khác cùng với sản phẩm tiền gửi đó nên chưa thu hút được nhiều khách hàng tiền gửi. Cho đến hiện nay NHLD Việt Thái chỉ có sản phẩm tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán) và tiền gửi có kỳ hạn (chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn). Ngoài nguyên nhân chủ quan thì điều này cũng xuất phát từ quy định của NHNN VN yêu cầu đối với khối NHLD chỉ được phép huy động hai dạng tiền gửi: không kỳ hạn và có kỳ hạn. Chính vì vậy, NHLD Việt Thái khó có thể đa dạng hóa sản phẩm tiền gửi của mình với những tiện ích đính kèm sản phẩm tiền gửi như các loại hình tiền gửi tiết kiệm đi kèm dịch vụ bảo hiểm, hoặc tiết kiệm an sinh… Một điểm đáng lưu ý khác nữa là nguồn vốn huy động của NHLD Việt Thái chủ yếu tập trung ở loại tiền gửi có kỳ hạn, tỷ lệ số dư tiền gửi không kỳ hạn chiếm rất thấp luôn dưới 20%. Mặc dù các năm gần đây số dư tiền gửi không kỳ hạn có dấu hiệu tăng lên nhưng tỷ lệ này còn quá khiêm tốn. Nguyên nhân của hạn chế này là do NHLD Việt Thái chưa có các sản phẩm tiện ích đính kèm loại hình tiền gửi này như dịch vụ E-banking, thẻ ATM.

Như vậy, hoạt động huy động vốn và cho vay của NHLD Việt Thái còn nhiều hạn chế, chính điều này đã khiến cho nguồn mang lại nhiều lợi nhuận nhất


xác, điều này không những làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng mà còn làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng và lòng tin của khách hàng. Điều này được minh chứng rò qua con số tỷ lệ nợ xấu của NHLD Việt Thái qua các năm gần đây, khi mà tỷ lệ này liên tục tăng với tốc độ tăng nhanh chóng: từ 2.08% năm 2010 đã tăng đột biến lên 9,22% trong năm 2012. Song song với đó là sự sụt giảm nghiêm trọng của chỉ số ROA và ROE trong năm 2012 chỉ là 0.06% và 0.17%. Điều này cho thấy chất lượng tín dụng và trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần tạo thu nhập bền vững cho ngân hàng và từ đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn ngân hàng.

Về hoạt động huy động vốn, tuy NHLD Việt Thái luôn nỗ lực tập trung huy động vốn từ khách hàng nhưng tổng số dư huy động không cao, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Cụ thể từ năm 2010 vốn huy động của ngân hàng đã giảm từ 184.03 triệu USD xuống còn 121.53 triệu USD vào năm 2012. Nguyên nhân là do NHLD Việt Thái chưa có các sản phẩm tiền gửi đa dạng kèm với các dịch vụ tiện ích khác cùng với sản phẩm tiền gửi đó nên chưa thu hút được nhiều khách hàng tiền gửi. Cho đến hiện nay NHLD Việt Thái chỉ có sản phẩm tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán) và tiền gửi có kỳ hạn (chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn). Ngoài nguyên nhân chủ quan thì điều này cũng xuất phát từ quy định của NHNN VN yêu cầu đối với khối NHLD chỉ được phép huy động hai dạng tiền gửi: không kỳ hạn và có kỳ hạn. Chính vì vậy, NHLD Việt Thái khó có thể đa dạng hóa sản phẩm tiền gửi của mình với những tiện ích đính kèm sản phẩm tiền gửi như các loại hình tiền gửi tiết kiệm đi kèm dịch vụ bảo hiểm, hoặc tiết kiệm an sinh… Một điểm đáng lưu ý khác nữa là nguồn vốn huy động của NHLD Việt Thái chủ yếu tập trung ở loại tiền gửi có kỳ hạn, tỷ lệ số dư tiền gửi không kỳ hạn chiếm rất thấp luôn dưới 20%. Mặc dù các năm gần đây số dư tiền gửi không kỳ hạn có dấu hiệu tăng lên nhưng tỷ lệ này còn quá khiêm tốn. Nguyên nhân của hạn chế này là do NHLD Việt Thái chưa có các sản phẩm tiện ích đính kèm loại hình tiền gửi này như dịch vụ E-banking, thẻ ATM.

Như vậy, hoạt động huy động vốn và cho vay của NHLD Việt Thái còn nhiều hạn chế, chính điều này đã khiến cho nguồn mang lại nhiều lợi nhuận nhất

49


của một ngân hàng trở nên không hiệu quả và kết quả mang lại quá khiêm tốn. Từ đây, ta có thể thấy trong cạnh tranh hiện nay khi mà các ngân hàng không chỉ tập trung vào chất lượng sản phẩm mà còn đa dạng hóa để đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì nhân tố đầu tiên đóng góp vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng chính là sự đa dạng các nghiệp vụ ngân hàng và các tiện ích đi kèm hỗ trợ cho hai hoạt động chính của ngân hàng là hoạt động huy động vốn và hoạt động cấp tín dụng.

Sau khi xét những nhân tố ảnh hướng đến kết quả hoạt động kinh doanh của NHLD thông qua việc phân tích thực trạng và các chỉ số tài chính thì ta tiến hành xem xét các nhân tố khác về khía cạnh chất lượng và sự đa dạng trong hoạt động dịch vụ đi cùng với mức độ đầu tư về trình độ công nghệ, về mạng lưới hoạt động, công tác quảng bá-tiếp thị, chất lượng cán bộ-nhân viên của ngân hàng.

Về hoạt động dịch vụ, hạn chế về sự đa dạng cũng như tiện ích của dịch vụ tại NHLD Việt Thái sẽ giúp chúng ta nhận diện rò hơn tầm quan trọng của nhân tố này đối với kết quả kinh doanh của ngân hàng. Các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của NHLD Việt Thái chưa chiếm được nhiều thị phần thanh toán qua ngân hàng. Đến giữa năm 2012, NHLD Việt Thái mới chính thức triển khai dịch vụ thu hộ tiền điện tại quầy trong khi dịch vụ này đã được các ngân hàng khác triển khai trong một thời gian dài. Cùng với đó, các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt như hóa đơn điện thoại, điện, nước… bằng dịch vụ thanh toán ủy nhiệm chi tự động hoặc thanh toán qua E-banking cũng chưa được triển khai. Nguyên nhân lại bắt nguồn từ vấn đề đầu tư công nghệ của NHLD Việt Thái. Hiện tại NHLD Việt Thái chỉ có dịch vụ SMS banking, tuy nhiên dịch vụ này chỉ để truy vấn thông tin về số dư, thông tin tỷ giá, lãi suất và thông báo số dư thay đổi cho chủ tài khoản. Và dịch vụ này vẫn chưa đáp ứng được hết các nhu cầu hiện nay của khách hàng sử dụng tài khoản tiền gửi thanh toán.

Dịch vụ thanh toán quốc tế tại NHLD Việt Thái tuy hiện nay đã đáp ứng tương đối đầy đủ cho khách hàng các loại dịch vụ thanh toán nhưng còn hạn chế ở các dịch vụ thanh toán hiện đại như bao thanh toán, chiết khấu hạn mức như mở L/C, chiết khấu bộ chứng từ. Doanh số thanh toán theo các loại dịch vụ này vẫn còn

50


rất hạn chế. Nguyên nhân là do chính sách tín dụng không có sự linh hoạt trong thời điểm nền kinh tế luôn chuyển đổi. Thông thường khách hàng muốn sử dụng các dịch vụ này phải có tài sản đảm bảo hoặc ký quỹ 100% bằng số dư tiền gửi (tại các NHTM khác mức ký quỹ chỉ khoảng 20%-30% hoặc bộ chứng từ sạch). Đây chính là nguyên nhân NHLD Việt Thái thiếu sức cạnh tranh với các NHTM khác. Chính vì sự thiếu linh hoạt và khắc khe trong điều kiện giao dịch đã dẫn đến số lượng khách hàng xuất khẩu của NHLD Việt Thái không nhiều nên vì vậy NHLD Việt Thái không có nhiều nguồn thu ngoại tệ để cung ứng cho khách hàng nhập khẩu.

Như vậy sự hạn chế mang tính đặc thù xuất phát từ quy định về sản phẩm huy động của một NHLD như NHLD Việt Thái và sau đó là sự kém năng động trong việc cung cấp dịch vụ của chính bản thân ngân hàng đã khiến cho danh mục dịch vụ của NHLD Việt Thái trở nên nghèo nàn và kém phát triển. Sự thiếu đa dạng trong sản phẩm ngân hàng cũng xuất phát từ chính sự thiếu quan tâm đầu tư của Ban điều hành NHLD Việt Thái đối với vấn đề công nghệ. Dịch vụ ATM trong mấy năm qua mặc dù luôn được xúc tiến triển khai nhưng hầu như vẫn giẫm chân tại chỗ, dịch vụ E-banking từ tháng 5/2012 cũng chỉ dừng lại ở mức độ demo trong nội bộ nhân viên ngân hàng và đang trong tiến trình kiểm tra và khắc phục lỗi. Dịch vụ SMS banking đơn thuần chỉ hoạt động như một kênh thông báo số dư khi tài khoản không kỳ hạn của khách hàng thay đổi. Sự hạn chế về công nghệ đã kéo dài trong suốt thời gian qua khiến cho công nghệ ngân hàng tại NHLD Việt Thái trở nên lạc hậu và có dấu hiệu thụt lùi trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay.

Một nhân tố ảnh hưởng tiếp theo chúng ta cần xem xét đó chính là mạng lưới hoạt động. Tính đến thời điểm hiện nay, ngoài Hội sở tại thành phố Hồ Chí Minh, NHLD Việt Thái chỉ có 8 chi nhánh và hai phòng giao dịch trên các địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (Hội Sở, 3 chi nhánh, 2 phòng giao dịch), thủ đô Hà Nội (2 chi nhánh), tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng mỗi tỉnh có một chi nhánh của NHLD Việt Thái. Nếu so với các NHTM khác thì mạng lưới này còn rất mỏng, dẫn đến hạn chế rất lớn trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống ngân hàng.


Một nhân tố khác cũng khá quan trọng trong việc tăng cường sự nhận biết của khách hàng đối với thương hiệu NHLD Việt Thái đó là hoạt động quảng cáo, tiếp thị. Trong thời gian qua NHLD Việt Thái chưa thực sự chú trọng và dành nhiều kinh phí đến công tác quảng bá, tiếp thị hình ảnh. Sự yếu kém trong hoạt động marketing tại NHLD Việt Thái nguyên nhân chủ yếu do Ban lãnh đạo chưa thực sự quan tâm đúng mức vì vậy NHLD Việt Thái chưa xây dựng được một đội ngũ marketing có đầy đủ năng lực và sự sáng tạo để đẩy mạnh hoạt động marketing của ngân hàng. Mặt khác, Ban lãnh đạo NHLD Việt Thái còn e dè trước những khoản chi phí phải bỏ ra cho hoạt động này nên chưa thực sự có những đầu tư hiệu quả để đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, tiếp thị quảng bá rộng rãi hình ảnh của NHLD Việt Thái ra thị trường. Ngay cả đối với các doanh nghiệp Thái đang hoạt động tại Việt Nam, và một số cá nhân người Thái Lan đang làm việc tại Việt Nam cũng chưa có sự nhận biết rò ràng về thương hiệu NHLD Việt Thái. Đây là một hạn chế rất lớn nếu NHLD Việt Thái muốn mở rộng hơn nữa hoạt động kinh doanh của mình trong thời gian tới.

Nhân tố cuối cùng và đóng vai trò quan trọng trong thành công của một tổ chức cũng như một ngân hàng là đội ngũ cán bộ, nhân viên. Thương hiệu NHLD Việt Thái quả thật không hấp dẫn trên thị trường lao động trong ngành ngân hàng hiện nay, dẫn đến phần lớn nguồn nhân lực hiện tại của NHLD Việt Thái chưa thật sự vững trong kỹ năng, lại ngày càng bị hao hụt do NHLD Việt Thái chưa có các chính sách sử dụng, đãi ngộ con người tốt. Một số cán bộ giỏi tại NHLD Việt Thái có đủ khả năng và trình độ chuyên môn để đóng góp hơn nữa cho sự phát triển của NHLD Việt Thái nhưng trong họ thiếu đi sự nhiệt huyết và quan tâm đến ngân hàng. Chính vì vậy, năng lực thực sự của họ chưa được cống hiến hết cho ngân hàng. Đây cũng là một tổn thất cho NHLD Việt Thái khi không phát huy được hết năng lực và trình độ chuyên môn của họ. Và một số cán bộ nắm giữ vị trí quản lý cấp cao như một số giám đốc chi nhánh của NHLD Việt Thái chưa thực sự có đủ năng lực quản lý, điều hành tốt. Chính vì vậy tình hình hoạt động kinh doanh tại một số chi nhánh của NHLD Việt Thái thật sự còn rất yếu kém, có chi nhánh hoạt


động lỗ nhiều năm liên tiếp, gây ảnh hưởng cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống.

Đối với nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài, hoạt động trong một môi trường pháp lý và chính trị xã hội khá ổn định như Việt Nam trong thời gian qua thì xem xét các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài ta sẽ chỉ tập trung vào phân tích nhân tố còn lại là nhân tố kinh tế mà nổi bật là hai chỉ tiêu GDP và lạm phát.

Bảng 2.10: Tốc độ tăng trưởng GDP và CPI của Việt Nam 2010-2012


Chỉ tiêu

2010

2011

2012

Tăng trưởng GDP

6.78%

5.89%

5.03%

CPI

11.75%

18.13%

6.81%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Liên doanh Việt Thái - 8

Nguồn: Tổng cục Thống kê


Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHLD Việt Thái thể hiệu qua chỉ số ROA và ROE có sự tăng giảm cùng xu hướng với sự tăng giảm của chỉ số GDP của Việt Nam. Từ cơ sở lý luận trong phần 1 và con số thống kê thực tế này chứng tỏ GDP có sự ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Và để có một kết luận chính xác hơn cho dài hơn, ta sẽ tiến hành kiểm định nhân tố ảnh hưởng trong phần phân tích định lượng dưới đây.

2.3.2 Kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHLD Việt Thái qua phân tích định lượng

Về mặt lý thuyết như đã trình bày trong chương 1 – phần cơ sở lý luận thì các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung gồm: các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. Tuy nhiên đối với từng ngân hàng, sự tác động của các nhân tố đó là khác nhau, hoặc chỉ bao gồm một vài nhân tố, hoặc đa số các nhân tố như trong lý thuyết. Qua phần phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHLD Việt Thái thông qua phần phân tích thực trạng và các chỉ tiêu tài chính cho thấy rằng đối với NHLD Việt Thái, sự ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả hoạt động kinh doanh ngân hàng vừa mang tính chung vừa mang tính đặc thù. Phần nghiên cứu định lượng này được

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/06/2022