Giải Pháp Thuộc Các Cơ Quan Quản Lý Nhà Nước Nhằm Chống Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Nhtm

trong quá trình tái cơ cấu, phục hồi nền kinh tế. Trong thời gian qua, cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính của thế giới đã ảnh hưởng, tác động xấu đến nền kinh tế toàn cầu và tất yếu theo quy luật thị trường, sẽ có hàng loạt các vụ mua bán, sáp nhập các công ty tài chính, ngân hàng, điều này diễn ra mạnh nhất tại Mỹ - nơi đã có hàng trăm ngân hàng bị phá sản và hàng chục ngân hàng tự nguyện hoặc bị mua bán và sáp nhập trong những năm vừa qua [14]. Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống các TCTD có số lượng tương đối lớn, nhưng trình độ phát triển không đồng đều, quy mô hoạt động nhỏ và chưa thật sự hiệu quả. Do đó, việc thực hiện cơ cấu lại hệ thống các TCTD, xử lý dứt điểm tình trạng các NHTM yếu kém, khắc phục tình trạng thiếu thanh khoản, lành mạnh hóa và ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng, thiết lập trật tự kỷ cương thị trường tiền tệ sẽ là một xu hướng tất yếu.

3.1.2. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật

Cũng như các khu vực thị trường khác, cạnh tranh trong thị trường dịch vụ ngân hàng là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Quá trình cạnh tranh chỉ đem lại hiệu quả và được coi là biện pháp bảo đảm thiết lập trật tự thị trường phát triển an toàn, lành mạnh khi có được các quy định pháp luật cạnh tranh cụ thể, rõ ràng, dễ áp dụng, nhất là đối với lĩnh vực nhạy cảm, dễ làm tổn thương đến nền kinh tế - xã hội, thì cần phải được nghiên cứu một cách thận trọng để tránh những hậu quả xảy ra. Trong bối cảnh hiện nay, các quy định pháp luật cạnh tranh nói chung và các quy định về chống hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng cần được hoàn thiện theo những định hướng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM cần có sự phù hợp với đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Với việc xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng

xã hội chủ nghĩa như Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể học hỏi, áp dụng ưu điểm pháp luật cạnh tranh của các nước trên thế giới nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, nếu áp dụng một cách thụ động, thiếu sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh nước ta, thì có thể dẫn đến các ảnh hưởng thiếu phù hợp đối với nền kinh tế. Vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lập pháp là áp dụng có chọn lọc những ưu điểm, tiến bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam.

Hơn nữa, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định rõ: Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường... Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả; Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng.

Đường lối của Đảng đã đặt ra nhu cầu hoàn chỉnh hệ thống pháp luật thông qua việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng để hình thành một khuôn khổ pháp lý đồng bộ.

Thứ hai, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM phải đảm bảo phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải được hoàn thiện phù hợp với khung pháp lý của các tổ chức quốc tế mà chúng ta là thành viên, đặc biệt là phù hợp khuân khổ các Hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ở Việt Nam, mặc dù trong hầu hết các văn bản pháp luật quan trong như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại… đều có các quy định dẫn chiếu trực tiếp đến điều ước quốc tế, nhưng theo thói quen lập pháp và hành pháp của chúng ta, việc trực tiếp viện dẫn các quy định của điều ước quốc tế để áp dụng cho những trường hợp cụ thể không thể thực hiện được. Do đó, pháp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.

luật cạnh tranh nói chung và CTKLM của NHTM nói riêng luôn phải được đặt trong xu thế chung của tiến trình nhất thể hóa pháp luật cho phù hợp với khung pháp lý đã được thừa nhận trong thương mại quốc tế.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM phải đồng bộ với hệ thống pháp luật chung, mà cụ thể là Luật Cạnh tranh, Luật NHNN, Luật các TCTD, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính… Một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ sẽ tránh được sự chồng chéo, mâu thuẫn gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng.

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 13

Thứ tư, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh cần đảm bảo nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thực thi pháp luật

Có thể thấy, độc lập trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh là yếu tố tiên quyết để có được sự công bằng trong việc xử lý các vụ việc và cũng là điều mà các bên liên quan chờ đợi ở cơ quan này. Vì thế, cho dù tổ chức bộ máy cơ quan cạnh tranh theo mô hình nào đi nữa thì nguyên tắc quan trọng hàng đầu là phải đảm bảo chúng không chịu bất kì sự can thiệp hay chi phối nào từ các cơ quan khác làm ảnh hưởng tới sự công bằng trong thương mại quốc tế. Chỉ khi sự công bằng được đảm bảo bằng một bộ máy đủ mạnh và công tâm thì lúc ấy thị trường mới thực sự lành mạnh và phát triển bền vững.

Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM không thể tách rời với công tác xây dựng các chính sách cạnh tranh hợp lý và hiệu quả

Sự đồng bộ của các biện pháp kinh tế, tài chính, pháp lý… sẽ góp phần nâng cao giá trị điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật về hành vi CTKLM của NHTM nói riêng và pháp luật nói chung chỉ thực sự có ý nghĩa khi mang tính khả thi, đáp ứng được điều kiện đời sống cũng như nhu cầu của các chủ thể tham gia dịch vụ. Vì vậy, pháp luật về các hành vi CTKLM của NHTM cần

phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, giải quyết những nhu cầu của các chủ thể tham gia, muốn thực hiện tốt điều này pháp luật phải phản ảnh ý chí của các ngân hàng, khách hàng và cơ quan chức năng.

3.2. KIẾN NGHỊ VỀ CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ

Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM, xuất phát từ thực trạng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hệ thống kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM ở Việt Nam trong thời gian qua, tôi xin đề xuất các giải pháp nhằm chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM ở Việt Nam như sau:

3.2.1. Giải pháp thuộc các cơ quan quản lý nhà nước nhằm chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM

3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về hành vi CTKLM nói chung và pháp luật về hành vi CTKLM của ngân hàng thương mại ở Việt Nam nói riêng

a. Sửa đổi, bổ sung những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại

Mặc dù Luật Cạnh tranh năm 2004 được ban hành và đưa vào thực thi trong một thời gian chưa dài, nhưng đã phát sinh những yêu cầu từ thực tiễn về việc phải sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung của Luật này cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Do đó, việc nghiên cứu một dự án sửa đổi, bổ sung Luật Canh tranh là rất cần thiết. Mặc khác, các quy định về hành vi CTKLM của Luật Cạnh tranh không được hướng dẫn tại hệ thống các văn bản dưới Luật, dẫn đến nhiều khó khăn vướng mắc trong việc tìm hiểu cũng như thực thi pháp luật cạnh tranh. Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh được coi là Nghị định hướng dẫn cơ bản và quan trọng nhất của Luật Cạnh tranh, nhưng chỉ quy định chi tiết về hành vi hạn chế cạnh tranh và thủ tục tố tụng cạnh tranh, không đề cập đến hành vi CTKLM. Chưa kể là trong điều kiện Việt Nam hiện nay, án

lệ chưa được công nhận có giá trị thay thế văn bản pháp luật, mặt khác, thẩm quyền của một cơ quan thuộc Bộ trong việc ban hành quy định cũng rất hạn chế. Do đó, việc kiến nghị Chính phủ xây dựng một Nghị định hướng dẫn thi hành chi tiết các hành vi CTKLM là rất cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xa hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Nhìn chung, các nội dung liên quan đến việc điều chỉnh hành vi CTKLM giữa các NHTM cần phải xem xét dựa vào Luật Cạnh tranh sửa đổi hoặc Nghị định hướng dẫn về CTKLM có thể bao gồm:

Thứ nhất, điều chỉnh khái niệm hành vi CTKLM, cụ thể là chỉnh sửa quy định tại khoản 4 Điều 3 của Luật Cạnh tranh 2004 theo hướng làm rõ nội dung “các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”. Với nền kinh tế thị trường mới hình thành, các thông lệ, tập quán thương mại tại Việt Nam chưa đủ thời gian để hình thành các chuẩn mực đạo đức kinh doanh được các tổ chức, cá nhân cùng nhận thức giống nhau và tự nguyện thực hiện như những quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc. Do đó, cần làm rõ nội dung này để làm căn cứ thống nhất trong việc xây dựng và áp dụng toàn bộ các quy định về CTKLM. Có thể xác định các tiêu chí này bằng những nguyên tắc cơ bản của giao dịch dân sự, thương mại và phù hợp với nhiều văn bản pháp luật khác như Bộ luật Dân sự hay Luật Doanh nghiệp: nguyên tắc trung thực; nguyên tắc thiện chí; nguyên tắc hợp tác; nguyên tắc cẩn trọng; và các nguyên tắc khác phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Bên cạnh đó, về điều kiện “gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”, kiến nghị bỏ nội dung “lợi ích của Nhà nước” do lợi ích của Nhà nước, của xã hội đã được thể hiện trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD thông qua lợi ích của doanh nghiệp khác và người tiêu dùng.

Thứ hai, cần mở rộng chủ thể áp dụng đối với các quy định về chống CTKLM trong Luật Cạnh tranh 2004 để thống nhất với quy định về đối tượng áp dụng được quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và tại Điều 2 của Dự thảo Nghị định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. Luật Cạnh tranh 2004 chỉ áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh (doanh nghiệp) và hiệp hội ngành nghề; trong khi theo Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đối tượng áp dụng bao gồm không chỉ các tổ chức, cá nhân hoạt động ở Việt Nam mà gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Dự thảo Nghị định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng cũng quy định phạm vi chủ thể của các hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng rộng hơn, có thể là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng và cung ứng dịch vụ ngoại hối khác. Như vậy, để Luật Cạnh tranh nói chung và các quy định về chống CTKLM nói riêng có hiệu quả thì không nên giới hạn đối tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh chỉ là các doanh nghiệp, mà nên mở rộng đối với tất cả các chủ thể có liên quan. Điều đó sẽ không chỉ bảo đảm cho mọi hành vi CTKLM được xử lý thống nhất theo quy định của Luật Cạnh tranh, mà còn tránh được tình trạng cùng là hành vi CTKLM nhưng có thể sẽ bị xử lý bởi những văn bản khác nhau.

Thứ ba, quy định rõ về bồi thường thiệt hại khi xử lý hành vi CTKLM nói chung. Để cho các quy định về bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi CTKLM triển khai được trong thực tế rất nhiều vấn đề pháp lý được đặt ra cần có sự hướng dẫn, giải thích từ các cơ quan có thẩm quyền (nhất là từ phía Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công thương). Trong các vấn đề ấy, cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau:

- Xác định rõ chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi CTKLM gây ra? Theo thông lệ chung của các nước, đối với hành vi CTKLM, chủ thể tiến hành khởi kiện chủ yếu là các đối thủ cạnh tranh.

- Những loại chế tài dân sự có thể áp dụng cho chủ thể có hành vi CTKLM. Theo quy định tại Điều 9 Bộ luật Dân sự năm 2005, khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm, chủ thể có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (trong đó có Tòa án) áp dụng một trong các hình thức sau: (a) công nhận quyền dân sự; (b) buộc chấm dứt hành vi vi phạm; (c) buộc xin lỗi, cải chính công khai; (d) buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; (đ) buộc bồi thường thiệt hại. Bởi vậy, cần xác định rõ những loại chế tài nào sẽ được áp dụng cho các hành vi CTKLM.

- Về mức bồi thường thiệt hại và xác định mức bồi thường thiệt hại. Để đơn giản hóa, pháp luật một số quốc gia đã đưa ra quy tắc, lợi nhuận thu được của chủ thể có hành vi CTKLM sẽ đương nhiên thuộc về chủ thể bị CTKLM. Đây cũng là kinh nghiệm tốt mà Việt Nam nên tham khảo và có chính sách rõ ràng về vấn đề này.

Thứ tư, về hoàn thiện thủ tục, trình tự xử lý các vụ việc cạnh tranh giới hạn trong các vấn đề về chống hành vi CTKLM giữa các NHTM:

- Kiến nghị hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc CTKLM. Luật Cạnh tranh 2004 quy định sau khi Cục Quản lý cạnh tranh ra quyết định xử lý vụ việc CTKLM, các bên liên quan có thể khiếu nại lên cấp trên trong thời hạn 30 ngày. Việc giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc CTKLM của Cục Quản lý cạnh tranh thuộc thẩm quyền của Bộ Công thương. Trong trường hợp vẫn tiếp tục không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng, các bên liên quan có thể khởi kiện ra Tòa án cấp tỉnh theo thủ tục khiếu kiện hành chính. Quy định này cần có văn bản hướng dẫn cụ thể của Toà án nhân dân tối cao, đặc biệt là cơ chế phối hợp

giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với Toà án trong việc xem xét, giải quyết đơn khởi kiện. Nhiều quốc gia còn có quan điểm cho rằng, do tính chất phức tạp, chuyên biệt của pháp luật cạnh tranh, cần hạn chế các Tòa án tham gia xử lý vụ việc cạnh tranh.

- Kiến nghị bổ sung quy trình điều tra rút gọn, cụ thể bổ sung vào Luật Cạnh tranh và Nghị định 116/2005/NĐ-CP thủ tục rút gọn cho phép vớ những vi phạm quả tang hay có chứng cứ rõ ràng, cơ quan cạnh tranh không cần phải thực hiện quy trình điều tra hai bước như hiện nay mà có thể lập biên bản xử lý nhanh chóng, đáp ứng tính cấp bách của việc đấu tranh, ngăn chặn hành vi CTKLM.

Thứ sáu, về sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với Tòa án trong việc xử lý các hành vi CTKLM chưa được quy định rõ ràng, cụ thể và động bộ. Do đó, để có cơ sở pháp lý xử lý vấn đề này, nhằm đơn giản hóa thủ tục và phạm vi tranh tụng trong các vụ kiện về hành vi CTKLM trước Tòa án, trong thời gian tới, văn bản quy phạm pháp luật quy định vấn đề này cần phải được ban hành [17]. Theo đó, các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan quản lý cạnh tranh về việc tồn tại hành vi CTKLM cũng nên được Tòa án công nhận, đồng thời, việc tranh tụng trước Tòa án về việc tồn tại hay không tồn tại hành vi CTKLM sẽ không nên đặt ra.

b. Hoàn thiện và sớm ban hành Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng

Hiện nay, Dự thảo Nghị định về CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng đang trong quá trình lấy ý kiến góp ý của các chuyên gia và người dân. Sau đây là một số góp ý cho Dự thảo Nghị định (Dự thảo 2):

Thứ nhất, cần làm rõ quan niệm “hợp tác” và “cạnh tranh” trong hoạt động ngân hàng làm cơ sở cho việc xác định hành vi CTKLM giữa các NHTM. Theo Từ điển tiếng Việt, hai thuật ngữ trên có nội hàm khác nhau, hơn nữa, trong hoạt động, các TCTD có mối liên hệ khá chặt chẽ với nhau,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/10/2023