Về lâu dài, Chính phủ cần chỉ định hoặc thành lập cơ quan chịu trách nhiệm chính về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Hiện nay, mới chỉ một phần rất nhỏ trong các hành vi CTKLM của NHTM được phát hiện, nguyên nhân do chưa có một cơ quan nào được thành lập chuyên trách để đảm nhiệm vai trò quản lý vấn đề này. Những sự việc như NHNN “tuýt còi” Techcombank vì vượt trần lãi suất vào cuối năm 2010 và một số các NHTM khác như ngân hàng Đông Á, Agribank… chỉ là một trong số ít những hành động can thiệp đối với các NHTM có hành vi CTKLM. Do nhiệm vụ chính của NHNN là điều hành chung chính sách tiền tệ nên NHNN khó có thể theo dõi sát sao để kịp thời nhận diện và đưa ra can thiệp kịp thời đối với tất cả các hành vi vi phạm trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Mục tiêu căn bản của giải pháp này là nhằm đảm bảo trách nhiệm rõ ràng, cụ thể và tập trung đối với việc chống các hành vi CTKLM của NHM trong thời gian tới ở Việt Nam.
Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ (điều tra viên, thành viên Hội đồng cạnh tranh, luật sư…) đủ trình độ và năng lực. Cho đến nay, trong nhiều cuộc tranh luận khoa học về đào tạo luật học tại các cơ sở đào tạo trên cả nước, những người có trách nhiệm vẫn còn nghi ngờ về vị trí của pháp luật cạnh tranh. Trong khi đó, chúng ta hiện đang rất thiếu cán bộ, chuyên gia, luật sư đủ trình độ và kinh nghiệm xử lý các vụ việc cạnh tranh vốn luôn phức tạp. Vì thế, để có thể thực thi luật cạnh tranh hiệu quả, chúng ta cần có chiến lược đào tạo hợp lý. Xử lý CTKLM là những vấn đề pháp lý rất mới ở nước ta. Chính vì thế, trong thời gian tới, Bộ Công thương cần có biện pháp thích hợp để đào tạo cán bộ, nhất là các cán bộ hoạt động thực tiễn trong vấn đề này (điều tra viên). Hình thức đào tạo cán bộ có thể đa dạng (đào tạo chính quy hoặc ngắn hạn; đào tạo trong nước hoặc đào tạo ở nước ngoài). Bên cạnh đó, phía Toà án nhân dân tối cao cũng cần có biện pháp đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán thích hợp để chuẩn bị kiến thức, kinh nghiệm cần thiết khi phải xử lý các hành vi CTKLM.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về CTKLM cũng góp phần hoàn thiện cơ chế bảo đảm thi hành pháp luật. Bởi lẽ, các TCTD - chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng có hiểu rõ về vấn đề này thì các quy định của pháp luật mới được thi hành một cách nghiêm túc và hiệu quả. Do đó, đối tượng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về CTKLM chủ yếu nên hướng tới trước tiên chính là các TCTD. Nội dung tuyên truyền cần giúp các TCTD nhận diện rõ những hành vi bị coi là CTKLM và quyền khiếu nại, khởi kiện của TCTD bị xâm hại, các hình thức chế tài có thể được áp dụng đối với TCTD có hành vi vi phạm. Các nội dung khác như trình tự, thủ tục khiếu nại, khởi kiện đối với hành vi CTKLM, phạm vi chứng minh, kinh nghiệm xử lý hành vi CTKLM cũng cần được tuyên truyền, phổ biến. Pháp luật về CTKLM cũng nên được đưa thành một nội dung trong công tác đào tạo cử nhân luật, cử nhân kinh tế, thương mại ở nước ta.
Thứ tư, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về hành vi CTKLM của NHTM đến cá nhân, tổ chức sử dụng dịch vụ ngân hàng. Vì các ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng, kể cả tích cực lẫn tiêu cực đều phụ thuộc và khả năng nhận thức và ứng xử của khách hàng. Không một cơ chế nào bảo vệ khách hàng tốt hơn chính bản thân họ tự bảo vệ mình. Khi mặt bằng kiến thức, tri thức của khách hàng được nâng cao, hoạt động ngân hàng nói chung sẽ phát huy vai trò tích cực thúc đẩy sự phát triển của thị trường, và các hành vi CTKLM trong lĩnh vực này sẽ dần bị triệt tiêu. Khách hàng sẽ nhận diện được đâu là hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng để tẩy chay dịch vụ của TCTD đó, góp phần làm cho các TCTD đó không thể đạt được mục đích CTKLM.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật chống CTKLM. Đấu tranh với các hành vi CTKLM là nhiệm vụ khá mới mẻ đối với
Việt Nam nhưng lại là lĩnh vực mà nhiều quốc gia trên thế giới rất có kinh nghiệm. Quá trình xây dựng Luật Cạnh tranh năm 2004 cho thấy, các nhà lập pháp Việt Nam cũng còn nhiều lúng túng khi phải đối mặt với lĩnh vực đầy mới mẻ này. Trong bối cảnh ấy, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm nước ngoài trong việc xử lý các vấn đề về cạnh tranh trong đó có CTKLM là rất cần thiết [32]. Trong thời gian tới, Bộ Công Thương cần có các chương trình hợp tác nghiên cứu, học tập trao đổi kinh nghiệm với các nước có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực pháp luật cạnh tranh nói chung và trong việc đấu tranh chống hành vi CTKLM nói riêng để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam và các cán bộ của cơ quan ấy có thêm kiến thức, năng lực và trình độ để xử lý các vấn đề mà thực tiễn Việt Nam đặt ra.
3.2.2. Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại nhằm chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh của NHTM
Nhằm chống các hành vi CTKLM của NHTM, các NHTM cần tập trung vào các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và trách nhiệm của mình trong việc làm lành mạnh thị trường dịch vụ ngân hàng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, giảm tính độc quyền của ngành ngân hàng, tạo sân chơi bình đẳng hơn cho các NHTM ngoài quốc doanh, cổ phần và sáp nhập một số các NHTM quốc doanh để tăng vốn tự có, từ đó nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động; phát triển thị trường tài chính với nhiều định chế tài chính trung gian.
Thứ hai, nâng cao năng lực tài chính, trong đó quan trọng nhất là vốn điều lệ. Vốn điều lệ của NHTM được xem là chiếc “đệm” để đối phó có hiệu quả với các cú sốc từ bên ngoài, bảo đảm một sự an toàn trong kinh doanh ngân hàng. Nếu vốn điều lệ quá thấp sẽ khiến các NHTM hoạt động luôn bị bất cập, bởi vì sẽ bị hạn chế trong mở rộng thị phần cho vay và huy động vốn, sẽ bị hạn chế trong mở các chi nhánh, phòng giao dịch, và do vậy, sẽ khó có
Có thể bạn quan tâm!
- Yêu Cầu Và Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam
- Giải Pháp Thuộc Các Cơ Quan Quản Lý Nhà Nước Nhằm Chống Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Nhtm
- Hoàn Thiện Cơ Chế Bảo Đảm Thi Hành Pháp Luật Về Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
cơ hội ngày càng tiến gần hơn đến các khách hàng mục tiêu và trên tất cả thì điều này đồng nghĩa với một sự thua kém, bất lợi về khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, tăng vốn điều lệ bằng cách nào và đạt đến qui mô nào là tối ưu? Đây luôn là vấn đề không đơn giản, nhất là đối với các NHTM ở các nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi. Về nguyên tắc, các NHTM có thể tăng vốn thông qua các kênh: (1) Tăng vốn Ngân sách Nhà nước cấp (đối với các NHTM nhà nước); (2) Cổ phần hóa NHTM Nhà nước; (3) Phát hành thêm cổ phiếu mới (đối với các NHTM cổ phần); (4) Sáp nhập, hợp nhất các NHTM [33]. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là việc tăng vốn phải đi kèm với tăng cường năng lực quản trị thì mới lợi dụng được tính kinh tế nhờ qui mô. Nếu không đảm bảo được yêu cầu này thì việc tăng vốn sẽ rất có thể dẫn tới làm giảm hiệu quả, suy yếu năng lực cạnh tranh của chính NHTM.
Thứ ba, ứng dụng khoa học công nghệ. Các NHTM đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin, bởi vì chỉ trên cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện đại thì các NHTM mới có điều kiện triển khai các loại hình dịch vụ mới, mở rộng đối tượng và phạm vi khách hàng. Công nghệ thông tin cho phép các NHTM nắm bắt cập nhật và đầy đủ các thông tin từ phía khách hàng, cho phép giảm thiểu rủi ro từ lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Công nghệ hiện đại cũng cho phép các NHTM giảm chi phí, giảm thời gian trong giao dịch, tăng độ an toàn cho khách hàng – đây vốn là những yêu cầu bắt buộc trong kinh doanh của các NHTM.
Thứ tư, đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, đa dạng thị trường. Đầu tư nghiên cứu và phát triển dịch vụ ngân hàng mới có hàm lượng ứng dụng công nghệ cao (thẻ thanh toán, thẻ thông minh, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, internet banking, home banking, e_banking). Cải tiến và hoàn thiện hệ thống các dịch vụ truyền thống thông qua việc cải tiến chất lượng dịch vụ, thủ tục giao dịch, phong cách phục vụ và chính sách tìm hiểu thị trường. Tập trung vào các khu
vực thị trường mục tiêu: Khu vực đô thị, khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế - thương mại. Các khách hàng mục tiêu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tập đoàn quốc gia và đa quốc gia, cá nhân và gia đình có thu nhập trên mức trung bình.
Thứ năm, hoàn thiện mô hình tổ chức – hoạt động nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp trong quản lý và nghiệp vụ ngân hàng. Nâng cao ý thức trách nhiệm và năng lực chuyên môn của đội ngũ càn bộ quản lý của các NHTM nhằm ngăn ngừa các hành vi CTKLM. Tăng cường năng lực quản lý điều hành tập trung, thống nhất toàn hệ thống tại Hội sở chính thông qua xây dựng hệ thống các định chế quản lý nội bộ theo tiêu chuẩn quốc tế; phát triển mô hình cơ cấu tổ chức ngân hàng theo hướng hiện đại, hướng đến khách hàng và sản phẩm, dịch vụ.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong hệ thống hoạt động ngân hàng, rủi ro luôn tiềm ẩn do tất cả các khâu, các công đoạn trong kinh doanh của NHTM đều gắn liền với sự vận động của vốn tiền tệ. Để giảm thiểu rủi ro thì một trong những yêu cầu bắt buộc là nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho tất cả các cán bộ, nhân viên trong các NHTM, không chỉ là trình độ chuyên môn nghiệp vụ tài chính – ngân hàng, mà còn đòi hỏi nâng cao trình độ kinh tế tổng hợp, bởi vì, có như vậy thì các NHTM mới tư vấn cho kinh doanh của mình các định hướng đầu tư vốn hiệu quả, đồng thời qua đó mới thẩm định chính xác các dự án đầu tư tín dụng.
Thứ bảy, minh bạch thông tin. Về lý thuyết, hiện tượng thông tin bất cân xứng chính là nguyên nhân dẫn tới rủi ro lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Trên thực tế, đối với các NHTM, các thông tin về khả năng thanh khoản, tình hình tài chính hiếm khi được công bố chính thức và dù công bố thì tính xác thực cũng còn nhiều điều đáng nghi vấn. Điều này được thể hiện rõ khi tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam do các tổ chức nước
ngoài đưa ra luôn cao gấp 2 – 3 lần so với số liệu do NHNN cung cấp. Mục đích của giải pháp này nhằm chống lại những hành vi CTKLM thông qua việc sử dụng các thông tin không đúng và gây dựng niềm tin dài hạn đối với công chúng và các cơ quan quản lý nhà nước. Giải pháp này nhằm hạn chế những rủi ro thông tin bất cân xứng trong hoạt động của hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn bộ hệ thống tài chính nói chung.
Tiểu kết Chương 3
Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống các TCTD có số lượng tương đối lớn, nhưng trình độ phát triển không đồng đều, quy mô hoạt động nhỏ và chưa thật sự hiệu quả. Bênh cạnh đó tình trạng CTKLM giữa các NHTM cũng đã và đang nảy sinh khá khốc liệt. Do đó, việc thực hiện cơ cấu lại hệ thống các TCTD, xử lý dứt điểm tình trạng các NHTM yếu kém, khắc phục tình trạng thiếu thanh khoản, lành mạnh hóa và ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng, thiết lập trật tự kỷ cương thị trường tiền tệ, ngăn chặn và xử lý hiệu quả các hành vi CTKLM giữa các NHTM đang là nhu cầu cấp thiết.
Việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam nói riêng cần phải đặt trong bối cảnh và yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh nói chung. Sớm hoàn thiện và ban hành Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện và tăng cường hiệu quả của cơ chế bảo đảm thi hành pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng.
KẾT LUẬN
Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta, cạnh tranh đã và đang từng bước được nhận thức, tiếp nhận như một quy luật vận động, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế nói chung và trong hoạt động vận hành, quản lý nền kinh tế nói riêng. Khi Việt Nam đang ngày được nhiều quốc gia công nhận nền kinh tế thị trường thì vấn đề quan trọng về tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật là: thể chế kinh tế thị trường hiện đai đòi hỏi phải tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thị trường. Cạnh tranh là thuộc tính của kinh tế thị trường, là một trong những tiêu chí đo lường của nền kinh tế. Một thị trường cạnh tranh cao có tác dụng kiềm giữ giá tốt hơn sự kiểm soát giá của Nhà nước, đồng thời buộc doanh nghiệp phải tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất, bảo đảm hiệu quả. Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xử lý các vụ việc CTKLM chính là quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn tới, giai đoạn thực hiện cuộc “phẫu thuật” tái cơ cấu nền kinh tế. Như vậy, có thể thấy rằng việc bảo đảm cho cạnh tranh tồn tại và hoạt động là điều kiện quan trọng để xây dựng thành công mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đối với lĩnh vực ngân hàng, hiện đang là một trong những lĩnh vực kinh doanh sôi động, có tiềm năng và tình hình cạnh tranh cũng đã và đang diễn ra rất mạnh mẽ. Nhìn lại lịch sử phát triển của thị trường dịch vụ ngân hàng cho thấy vai trò và giá trị của cạnh tranh được biểu hiện, hình thành rất rõ nét. Cạnh tranh đã đưa đến cho thị trường dịch vụ ngân hàng một không khí mới, màu sắc mới, khách hàng có cơ hội tiếp cận và thụ hưởng lợi ích lớn hơn. Từ hình ảnh thị trường độc quyền đến cạnh tranh đa dạng của nhiều TCTD và các tổ chức tài chính thực hiện các hoạt động ngân hàng là kết quả, thành công của sức mạnh và vai trò điều tiết của cạnh tranh.