rằng, không thể không tồn tại hành vi CTKLM. Tuy nhiên, việc xử lý những hành vi này theo quy định của pháp luật còn rất hạn chế và cách thức xử lý chưa đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật.
2.2.2.1. Xử lý theo Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành
Theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004, cơ quan quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi CTKLM và xử lý, xử phạt hành vi CTKLM (điểm c, d khoản 2 Điều 49). Điều đó có nghĩa, cơ quan quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ và quyền hạn xử lý các hành vi CTKLM giữa các NHTM.
Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng quy định cụ thể về việc điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh, theo đó, việc giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi CTKLM thực hiện theo quy định của Luật Cạnh tranh và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh những quy định về các thủ tục điều tra, xử lý vụ việc CTKLM, thì Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng có những quy định về xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh nói chung tại Mục 8, Chương V.
* Về các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Mục IV Chương II Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh đã đưa ra những chế tài như sau:
- Phạt tiền:
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp chịu mức phạt tiền từ 10 đến 200 triệu đồng; hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh chịu mức phạt tiền từ 10 đến 30 triệu đồng; hành vi ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác sẽ phải chịu mức phạt tiền chung từ 50 đến 150 triệu đồng.
Mức phạt tiền đối với hành vi quảng cáo nhằm CTKLM từ 60 đến 140 triệu đồng; với hành vi khuyến mại nhằm mục đích CTKLM từ 60 đến 100 triệu đồng, hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội từ 10 đến 100 triệu đồng.
Riêng hành vi vi phạm quy định về bán hàng đa cấp bị phạt số tiền cao nhất là từ 20 đến 200 triệu đồng.
- Ngoài việc bị phạt tiền, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả, bao gồm tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ thực hiện hành vi vi phạm; buộc cải chính công khai và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp đối với một số hành vi vi phạm quy định về bán hàng đa cấp.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Các Quy Định Của Luật Các Tổ Chức Tín Dụng Và Các Văn Bản Hướng Dẫn Thi Hành Về Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 8
- Thực Trạng Áp Dụng Pháp Luật Về Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam Hiện Nay
- Thực Trạng Xử Lý Các Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam Hiện Nay
- Yêu Cầu Và Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam
- Giải Pháp Thuộc Các Cơ Quan Quản Lý Nhà Nước Nhằm Chống Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Nhtm
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
* Vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra không được quy định cụ thể, mà pháp luật cạnh tranh lại dẫn chiếu đến pháp luật dân sự (khoản 3 Điều 117 Luật Cạnh tranh). Theo đó, “tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”. Như vậy, các yêu cầu về bồi thường thiệt hại trong các vụ việc cạnh tranh sẽ được áp dụng theo các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm 2005, cụ thể sẽ được giải quyết thông qua thủ tục dân sự và cơ quan giải quyết là Tòa án. Ở đây cần thấy rằng, việc quy định cơ quan cạnh tranh không có thẩm quyền giải quyết bồi thường thiệt hại không phải do tính chất phức tạp trong thủ tục xem xét bồi thường, mà xuất phát từ một vấn đề có tính chất nguyên tắc là giải quyết bồi thường thiệt hại là một thẩm quyền chuyên biệt của Tòa án, mà một cơ quan hành chính không có thẩm quyền can thiệp vào. Tuy nhiên, thẩm quyền giải quyết bồi thường thiệt hại của Tòa án lại đặt ra một số
vướng mắc sau:
Thứ nhất, theo kinh nghiệm của các nước, do tính chất phức tạp của vụ việc cạnh tranh, cần có một số tòa án chuyên trách về các vấn đề cạnh tranh, chẳng hạn như Tòa Phá án Paris tại Pháp hay Tòa Stockholm tại Thụy Điển.
Thứ hai, nhiều Tòa án không xem xét đến nội dung vụ việc đã được cơ quan cạnh tranh giải quyết mà chỉ kiểm tra các vấn đề liên quan tới thủ tục. Trong trường hợp này, người khiếu nại hành vi CTKLM sẽ phải thực hiện liên tiếp hai thủ tục tố tụng tại cơ quan cạnh tranh (để đình chỉ vi phạm) và tại Tòa án (để yêu cầu bồi thường thiệt hại). Có thể thấy cách làm như vậy tương đối phức tạp, mất thời gian, mặt khác còn đặt ra vấn đề thẩm quyền của Tòa án xử lý. Giải quyết bồi thường thiệt hại là một thủ tục dân sự, do đó cần phải được giải quyết tại Toà dân sự, tuy nhiên, việc xem xét lại quyết định của một cơ quan quản lý nhà nước như cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc thẩm quyền của Tòa hành chính.
Thứ ba, về mức bồi thường thiệt hại và xác định mức bồi thường thiệt hại thực tế do hành vi CTKLM gây ra luôn là vấn đề phức tạp [44]. Để đơn giản hóa, pháp luật một số quốc gia đã đưa ra quy tắc, lợi nhuận thu được của chủ thể có hành vi CTKLM sẽ đương nhiên thuộc về chủ thể bị CTKLM. Đây cũng là kinh nghiệm tốt mà Việt Nam nên tham khảo và có chính sách rõ ràng về vấn đề này.
* Vấn đề xử lý hình sự đối với một số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh
Về tội phạm hình sự trong lĩnh vực cạnh tranh, kinh nghiệm xây dựng pháp luật của một số quốc gia công nghiệp phát triển cho thấy một số hành vi CTKLM gây nguy hại không chỉ cho đối thủ cạnh tranh, mà còn gây thiệt hại tới người tiêu dùng và trật tự quản lý kinh tế trong xã hội. Chính vì thế, việc xử lý hình sự đối với một số hành vi CTKLM là cần thiết. Hiện tại Bộ luật Hình sự năm 1999 của Việt Nam đã bước đầu có quy định việc xử lý hình sự đối với một số hành vi CTKLM, như tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156, Điều 157, Điều 158), tội lừa dối khách hàng (Điều 162), tội quảng cáo gian dối (Điều 168). Tuy nhiên, còn nhiều hành vi CTKLM mà pháp luật nhiều quốc gia quy định là tội phạm, song Bộ luật Hình sự 1999 của Việt
Nam chưa quy định, trong đó có hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, hoạt động tình báo công nghiệp… Phải cho đến gần đây, trong Bộ luật Hình sự sửa đổi (được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015) thì pháp luật hình sự Việt Nam mới bổ sung một số tội phạm liên quan đến hành vi CTKLM như: Tội vi phạm về cạnh tranh (Điều 217), Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 225), Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226)… với mục đích trừng trị những hành vi cố ý làm trái quy định của nhà nước về cạnh tranh, bảo đảm sự bình đẳng, lành mạnh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển ổn định.
Về trình tự, thủ tục tố tụng hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực cạnh tranh, Điều 94 và 95 của Luật Cạnh tranh quy định trường hợp điều tra phát hiện vụ việc cạnh tranh có dấu hiệu tội phạm, Cục Quản lý cạnh tranh sẽ xem xét chuyển hồ sơ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự thấy có căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì phải trả hồ sơ cho cơ quan quản lý cạnh tranh để tiếp tục điều tra theo thủ tục quy định tại Luật này. Thời hạn điều tra quy định tại Điều 90 của Luật này được tính từ ngày nhận lại hồ sơ.
Ở đây, Luật Cạnh tranh chưa làm rõ những trường hợp xử lý khác nhau. Trong trường hợp chỉ tồn tại một hành vi vi phạm, chẳng hạn như có khiếu nại về quảng cáo nhằm CTKLM nhưng qua điều tra xét thấy hành vi này có dấu hiệu của tội quảng cáo gian dối theo Điều 168 Bộ luật Hình sự (thiệt hại lớn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính….), cơ quan này sẽ chuyển toàn bộ hồ sơ sang cơ quan điều tra để tiến hành thủ tục tố tụng hình sự [44]. Tuy nhiên, trong trường hợp qua điều tra phát hiện thấy một hành vi khác vi phạm Luật Cạnh tranh mà không phải hành vi bị điều tra, chẳng hạn như qua
quá trình điều tra về quảng cáo nhằm CTKLM còn phát hiện vi phạm về buôn lậu hay sản xuất hàng giả, cơ quan cạnh tranh sẽ chuyển phần nội dung có liên quan đến hành vi mới cho cơ quan điều tra, nhưng vẫn cần tiếp tục điều tra về hành vi vi phạm phù hợp với thời hạn điều tra luật định.
* Vấn đề khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh có những tồn tại cần phải xem xét. Khoản 1 Điều 115 Luật cạnh tranh quy định:
Trường hợp không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên có liên quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại ra Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền [25, Điều 115].
Việc giải quyết đơn kiện tại Toà hành chính đối với quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, trong đó có hành vi CTKLM được thực hiện theo pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính? Có thể coi quy định này là một bất cập của Luật Cạnh tranh, cho phép bất kỳ bên nào trong vụ việc vô hiệu hóa quyết định xử lý vụ việc của cơ quan cạnh tranh và kéo dài vụ việc theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.
Thủ tục xử lý vụ việc cạnh tranh với hai cấp điều tra đã kéo dài bất hợp lý, nếu cho phép các bên liên quan, đặc biệt là bên vi phạm kéo dài thời gian giải quyết vụ việc theo thủ tục Tòa án trong khi không có biện pháp ngăn chặn, để hành vi CTKLM tiếp tục được thực hiện sẽ khiến cho ảnh hưởng tiêu cực phổ biến ngày một rộng, việc áp dụng pháp luật cạnh tranh sẽ không còn ý nghĩa thực tiễn.
Mặt khác, quy định của Luật về thời hạn có hiệu lực thực thi của quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh sau 30 ngày kể từ ngày ban hành quyết định, tương tự như trường hợp bản án, quyết định của Tòa án trong pháp
luật về tố tụng cũng thể hiện sự bất hợp lý. Cần khẳng định rằng, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là một quyết định hành chính do một cơ quan hành chính ban hành, do đó, văn bản này cần có giá trị bắt buộc thi hành ngay đối với các bên liên quan [44].
Cuối cùng, việc cho phép Tòa án can thiệp vào quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của cơ quan cạnh tranh là một vấn đề còn gây tranh cãi. Vấn đề đặt ra là Toà hành chính sẽ xem xét lại toàn bộ vụ việc từ đầu, xem xét lại cả nội dung và thủ tục cạnh tranh đã được áp dụng bởi các cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh hay chỉ xem xét về mặt hình thức? Giá trị pháp lý của quyết định giải quyết khiếu nại của Toà án như thế nào? Quyết định có giá trị chung thẩm như kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới hay phải tuân thủ đầy đủ thủ tục từ sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc thẩm.
* Về sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với Tòa án trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Có một thực tế là ở Việt Nam, Tòa án chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý hành vi CTKLM, chính vì vậy, việc phối kết hợp giữa Tòa án với cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh trong quá trình xử lý các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi CTKLM gây ra là rất cần thiết.
Liệu các kết luận về sự tồn tại của hành vi CTKLM từ phía cơ quan quản lý cạnh tranh có được coi là căn cứ để bên có quyền lợi bị xâm hại tiến hành khởi kiện tại Tòa án về hành vi CTKLM không? Liệu trước Tòa án, khi xử lý các vụ việc CTKLM mà đã có quyết định chính thức của cơ quan quản lý cạnh tranh có hiệu lực pháp luật, thì vấn đề tồn tại hay không tồn tại hành vi trái pháp luật (hành vi CTKLM) có cần phải đưa ra tranh tụng giữa các bên nữa hay không? [44] Đến nay, Luật Cạnh tranh cũng như các quy định của pháp luật tố tụng ở nước ta chưa quy định vấn đề này mặc dù đây là vấn đề có tính thực tiễn cao. Thiết nghĩ, các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ
quan quản lý cạnh tranh về việc tồn tại hành vi CTKLM cũng nên được Tòa án công nhận và trong trường hợp đó, việc tranh tụng trước Tòa án về việc tồn tại hay không tồn tại hành vi CTKLM sẽ không nên được đặt ra.
2.2.2.2. Xử lý theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác có liên quan
Theo quy định tại khoản 2 Điều 118 Luật Cạnh tranh, cơ quan có thẩm quyền xử phạt có thể tiến hành phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định về CTKLM và các hành vi khác vi phạm quy định của Luật này không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan. Như vậy, đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh nói chung, tổ chức, cá nhân vi phạm về cơ bản sẽ được xử lý theo pháp luật hành chính; đồng thời, do đặc thù trong lĩnh vực ngân hàng, sau khi Nghị định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng được chính thức ban hành và có hiệu lực, thì chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực này sẽ bị xử lý theo những quy định của Nghị định mới. Luật các TCTD năm 2010 cũng có quy định tương tự về việc xử lý vi phạm trong hoạt động ngân hàng nói chung: “Chính phủ quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lý các hành vi này” (khoản 3 Điều 9).
Dự thảo Nghị định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng có quy định như sau:
Việc xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng thực hiện theo nguyên tắc quy định tại Điều 3 Pháp lệnh số 44/2002/PL- UBTVQH10 ngày 2/7/2002 về xử phạt vi phạm hành chính và Điều 3 Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh [5, Điều 4, khoản 2].
Tuy nhiên cần chú ý rằng, Pháp lệnh về xử phạt vi phạm hành chính đã bị chấm dứt hiệu lực và được thay thế bằng Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13, hơn nữa, Nghị định 120/2005/NĐ-CP cũng đã bị thay thế bởi Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 của Chính phủ.
Điều 6 Dự thảo Nghị định quy định về căn cứ xác định mức độ xử lý đối với các hành vi CTKLM thực hiện theo quy định của Luật các TCTD và Điều 7 Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. Tuy nhiên, trong Luật các TCTD năm 2010 hiện tại không có điều khoản nào quy định về căn cứ để xác định mức độ xử lý đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực ngân hàng và Nghị định 120/2005/NĐ-CP cũng đã hết hiệu lực.
* Về thẩm quyền xử phạt: Thẩm quyền xử phạt hành vi CTKLM là những cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền tiến hành các thủ tục trong các vụ việc về CTKLM. Dự thảo Nghị định có quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt CTKLM đó là: Thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước (Điều 22) và Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Điều 25).
Quy định như trong Dự thảo Nghị định là phù hợp, bởi lẽ, hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng là những hành vi có tính chất phức tạp, thường xuyên xảy ra và có khả năng gây biến động lớn cho hệ thống ngân hàng nói chung, gây hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế... nên cần phải qua quá trình điều tra, xem xét, xác minh bởi các cá nhân, tổ chức có trình độ, có kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực ngân hàng. Vì vậy, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý cạnh tranh và Thanh tra giám sát NHNN như trong Dự thảo Nghị định là nhằm đảm bảo tính khách quan, đúng đắn khi ra các quyết định đối với từng vụ việc CTKLM cụ thể trong hoạt động ngân hàng. Ngày 12/6/2014 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 35/2014/QĐ-
TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan