Bảng 2.14: Dự báo xuất- nhập khẩu một số nông sản thế giới 2010 - 2020
Đơn vị tính: Triệu tấn
2010 | 2020 | TK 2010-2020 | |
1. Cà phê | |||
Thế giới | 5,000 | 7,401 | 4,0 |
Mỹ la tin-Caribe | 2,900 | 2,758 | -0,5 |
Trung Mỹ | 0,273 | 0,396 | 3,8 |
Châu Phi | 1,100 | 1,161 | 1,5 |
Châu Á | 1,500 | 1,793 | 1,8 |
Châu Đại dương | 0,150 | 0,178 | 1,7 |
2. Chè | |||
Thế giới | 1,500 | 1,920 | 2,5 |
3.Cao su | |||
Thế giới | 6,999 | 12,533 | 6,0 |
4. Điều thô | |||
Thế giới | 0,323 | 0,578 | 6,0 |
5. Hạt tiêu | |||
Thế giới | 0,176 | 0,200 | 1,3 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các giải pháp kinh tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 16
- Đánh Giá Tình Hình Sản Xuất Và Xuất Khẩu Cao Su
- Tình Hình Xuất - Nhập Khẩu Nông Sản Thế Giới Trong Những Năm Gần Đây
- Điều Chỉnh Các Chính Sách Thương Mại Nông Sản, Chính Sách Nông Nghiệp Phù Hợp Với Cam Kết Của Wto
- Tập Trung Đầu Tư Nghiên Cứu Tạo Và Chuyển Giao Các Loại Giống Mới, Bảo Tồn Và Duy Trì Các Loại Giống Nông Sản Đặc Chủng
- Tập Trung Nâng Cao Năng Lực Công Tác Dự Báo Quốc Gia Phục Vụ Công Tác Điều Hành
Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.
Nguồn: Viện Quy hoạch và TKNN
2.2.3.3. Dự báo xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam 2010-2020
Trên cơ sở phân tích đã được đề cập ở phần trên, Luận án đưa ra một số chỉ tiêu có tính chất dự báo xuất khẩu một số nông sản chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 2010-2020 cụ thể như sau:
Bảng 2.15 : Dự báo xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam 2010-2020
Đơn vị tính: Triệu USD
Kim ngạch | Tăng trưởng 2010- 2020 (%/năm) | ||
2010 | 2020 | ||
Tổng giá trị xuất khẩu | 11600.0 | 17400. | 4.14 |
Gạo | |||
Sản lượng | 3500.0 | 3500.0 | 0.0 |
Giá trị | 780.0 | 880.0 | |
Cà phê | |||
Sản lượng | 840.0 | 800.0 | -0.49 |
Giá trị | 670.0 | 800.0 | |
Cao su | |||
Sản lượng | 600.0 | 1000.0 | 5.2 |
Giá trị | 480.0 | 800.0 | |
Chè | |||
Sản lượng | 120.0 | 150.0 | 2.3 |
Giá trị | 170.0 | 560.0 | |
Điều | |||
Sản lượng | 120.0 | 150.0 | 2.3 |
Giá trị | 630.0 | 560.0 | |
Lạc | |||
Sản lượng | 200.0 | 200.0 | 0.0 |
Giá trị | 120.0 | 120.0 | |
Hồ tiêu | |||
Sản lượng | 120.0 | 120.0 | 0.0 |
Giá trị | 240.0 | 240.0 |
Nguồn: Bộ NN&PTNT [4].
Sở dĩ dự báo triển vọng xuất khẩu một số nông sản chủ yếu của Việt Nam nhiều khả năng sẽ tăng trưởng chậm lại, hoặc có thể tăng trưởng âm do gặp khó khăn về thị trường đầu ra do kinh tế thế giới nói chung và kinh
tế của các thị trường xuất khẩu trọng điểm hàng nông sản của Việt Nam đều gặp khó khăn, rơi vào suy thoái.
2.3. Những kết luận cơ bản rút ra qua nghiên cứu, đánh giá thực trạng xuất khẩu và việc triển khai các giải pháp kinh tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
Qua phân tích, đánh giá tình hình xuất khẩu hàng nông sản phẩm của Việt Nam, mà đại diện là 3 sản phẩm chủ yếu (gạo, cà phê, cao su) là những mặt hàng chủ lực trong hệ thống hàng nông sản nói riêng, cũng như là hệ thống hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung tác giả có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, có thể nhận thấy đây là điểm thành công của nông nghiệp Việt Nam nói chung và nông sản nói riêng, diện tích trồng trọt được mở rộng và không ngừng tăng lên qua các năm, đi đôi với nó là sản lượng cũng tăng liên tục, các sản phẩm nông sản dần chiếm lĩnh các thị trường thế giới. Từ chỗ không có để xuất khẩu đến nay các sản phẩm nông sản của Việt Nam (gạo, cà phê, cao su) đã đứng vị trí nhất, nhì thế giới về khối lượng xuất khẩu, nhưng tốc độ tăng giá trị xuất khẩu nông sản lại không tương xứng với tốc độ tăng về khối lượng xuất khẩu. Nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng sản phẩm thấp, xuất khẩu thô là chủ yếu, công nghiệp chế biến thấp dẫn đến giá trị gia tăng thấp.
Thứ hai, so với giá cả các mặt hàng khác, thì giá xuất khẩu nông sản biến động tương đối lớn và thường xuyên. Nếu so sánh với giá xuất khẩu nông sản của các nước xuất khẩu cùng loại nông sản, thì giá xuất khẩu nông sản của Việt Nam thường thấp hơn so với các nước. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do chất lượng nông sản xuất khẩu của Việt Nam thường được khách hàng các nước đánh giá thấp nên thường bị ép giá; bên cạnh đó các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam cũng vì lợi ích kinh tế của cá nhân doanh
nghiệp, nên thường hạ giá thấp để dành lấy các hợp đồng kinh tế mà không có sự liên kết kinh tế, phân chia quyền lợi, bảo vệ lợi ích chung cho cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh ấy, thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam tương đối nhiều, tuy nhiên khối lượng tại các thị trường này cũng còn nhỏ lẻ, chiến lược xâm nhập sâu và chiếm lĩnh thị trường chưa được thực hiện mạnh mẽ.
Thứ ba, tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế giới thấp, chất lượng chưa đồng đều và ổn định. Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng tươi sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Gạo, cà phê, cao su của Việt Nam chưa đảm bảo độ đồng nhất về quy cách chất lượng ngay trong từng lô hàng, bao bì đóng gói kém hấp dẫn và chưa có nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì. Điều đó làm cho giá xuất khẩu của nông sản Việt Nam thấp hơn các nước khác.
Thứ tư, phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các đối thủ cạnh tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành được một hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống tác giả, giống nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết người nông dân đã tự sản xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên thị trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng.
Thứ năm, so với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản, nhất là hàng tươi sống rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh.
Thứ sáu, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là khâu marketing, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất-chế biến-xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế... chưa thiết lập được một cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường.
Thứ bảy, tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung thì diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực, truyền thống như gạo, cà phê, cao su, tiêu, điều, hải sản, gỗ và sản phẩm gỗ… mà phần lớn chúng đều tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như diện tích có hạn, năng suất có hạn, khả năng khai thác có hạn… và khả năng cạnh tranh ngày càng giảm dần.
Tóm lại, tại Chương 2 tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng và làm rõ rất nhiều vấn đề có liên quan đến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong thời gian vừa qua, trong đó tập trung vào việc:
- Đánh giá khái quát quá trình phát triển xuất khẩu hàng nông sản; Phân tích sâu một số cơ chế, chính sách của Nhà nước đã ban hành trong thời gian qua có liên quan đến cơ chế, chính xuất khẩu hàng hàng nông sản như cơ chế hỗ trợ xuất khẩu nông sản, tín dụng xuất khẩu nông sản, bảo hiểm xuất khẩu nông sản, thuế và phi thuế quan, cơ chế, chính sách cho sản xuất nông sản, chính sách thị trường xuất khẩu nông sản... Từ đó đã rút ra được những
cơ chế, chính sách nào của Nhà nước tác động tích cực, có hiệu quả đóng góp vào phát triển xuất khẩu nói chung và của hàng nông sản xuất khẩu nói riêng; cũng như một số cơ chế, chính sách của Nhà nước đã ban hành ra, nhưng trong quá trình triển khai không triển khai được hoặc hiệu quả đem lại còn hạn chế.
- Đi sâu phân tích, đánh giá một số loại nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong thời gian qua (gạo, cà phê, cao su), phân tích đánh giá khá toàn diện từ diện tích sản xuất, sản lượng, năng suất, khối lượng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu, thị phần, thị trường tiêu thụ, chất lượng sản phẩm nông sản, giá cả xuất khẩu, chi phí sản xuất, xuất khẩu, thương hiệu xuất khẩu hàng nông sản, công tác dự báo.... Và có sự so sánh với một số nước trong khu vực về cùng một loại nông sản xuất khẩu.
- Đề cập, phân tích, đánh giá một cách tổng quát tình hình xuất - nhập khẩu nông sản của Thế giới trong thời gian qua, tình hình cung- cầu nông sản của thế giới và đưa ra những dự báo về xuất khẩu nông sản thế giới và dự báo về xuất khẩu nông sản của Việt Nam đến năm 2010.
Qua đó, sẽ có bức tranh tổng quát về hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua, là cơ sở để đưa ra các quan điểm, mục tiêu, phương hướng và các nhóm giải pháp kinh tế thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong điều kiện hội nhập sẽ được đề cập tại Chương 3.
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VỀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
3.1.1. Các quan điểm cơ bản về xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong điều kiện hội nhập
Từ những vấn đề lý luận cơ bản, từ thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam thời gian qua và từ kinh nghiệm của một số nước có truyền thống sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản trên thế giới, để đề ra các nhóm giải pháp kinh tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong thời gian tới, cần quán triệt các quan điểm cơ bản sau đây:
- Quan điểm thứ nhất, phải quan tâm đến các chính sách, giải pháp kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu thông qua việc nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng, mang tính quyết định đến sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Tập trung đầu tư có trọng điểm, tránh tràn lan phân tán nguồn lực, hướng mạnh vào các mặt hàng chiến lược có lợi thế so sánh như lúa gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu...
Đối với các thị trường xuất khẩu, bên cạnh tập trung củng cố các thị trường trọng điểm như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc... tích cực mở rộng khai thác các thị trường mới như Trung Đông, Châu Phi, Mỹ La Tinh. Mở rộng thị trường trong nước, đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng thương mại, đảm bảo lưu thông hàng hóa thông suốt, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống để từ đó có định hướng hợp lý cho phát triển sản xuất.
- Quan điểm thứ hai, các chính sách, giải pháp kinh tế thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong điều kiện hội nhập phải đảm bảo tính bền vững. Chính sách và giải pháp này, ngoài hiệu quả kinh tế cũng đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái phát triển bền vững. Quan điểm này rất có ý nghĩa đối với một số loại nông sản như gạo, cà phê, cao su, tiêu, điều...
- Quan điểm thứ ba, đảm bảo việc xây dựng các chính sách, giải pháp kinh tế thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản phải phù hợp, không trái với các cam kết của hội nhập như AFTA, WTO, các hiệp định thương mại song phương, đa phương và khu vực khác, các tổ chức quốc tế và thông lệ quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nhất là đối với các hình thức hỗ trợ, trợ cấp mà theo khuyến cáo là hạn chế hoặc cấm trong sản xuất, xuất khẩu hàng nông sản.
- Quan điểm thứ tư, đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích của người nông dân sản xuất hàng nông sản, doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu hàng nông sản, nhà khoa học trong việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học-kỹ thuật trong nông sản, nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách có liên quan đến nông sản.
3.1.2. Mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam đến năm 2020
3.1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá với sung lực chính là tự do hoá thương mại sẽ tiếp tục diễn ra trong những năm tới. Xuất khẩu sẽ có cơ hội tăng trưởng trên một số thị trường. Toàn cầu hoá và khu vực hoá làm nội dung của phân công lao động quốc tế có sự thay đổi. Các lợi thế truyền thống như tài nguyên thiên nhiên và lao động sẽ giảm dần giá trị. Nếu chỉ dựa vào tài nguyên thiên nhiên và lao động giá rẻ thì xuất khẩu sẽ không thể duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong thời gian dài. Vì