Các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế theo pháp luật Việt Nam - 11

định, Thông tư đã ban hành và được kiểm chứng qua thực tiễn áp dụng đưa vào quy định trong Luật Quản lý thuế.

Thứ hai, trên cơ sở Luật Quản lý thuế được sửa đổi cần ban hành các Nghị định riêng trong từng lĩnh vực quản lý thuế, trong đó có Nghị định về các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để tập trung hóa, đơn giản hóa hệ thống quy phạm pháp luật về quản lý thuế nói chung và pháp luật về các biện pháp cưỡng chế nợ thuế nói riêng, tránh tình trạng có quá nhiều các quy định của pháp luật về quản lý nợ thuế cũng như về các biện pháp cưỡng chế nợ thuế được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, vừa tản mạn, chồng chéo, vừa không có tính hệ thống, làm khó cho các cơ quan quản lý thuế và cho người nộp thuế trong việc tra cứu, tìm hiểu và áp dụng như hiện nay.

Thứ ba, cần sửa đổi, bổ sung ngay một số quy định của pháp luật quản lý nợ thuế hiện hành để nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong quản lý thuế hiện nay, cụ thể:

Một là, sửa đổi quy định về mức phạt chậm nộp thuế, nộp phạt theo hướng nâng mức phạt cao hơn mức lãi suất ngân hàng thương mại đang cho vay ngắn hạn. Bởi mức phạt nộp chậm tiền thuế hiện nay là 0,05% cho số tiền chậm nộp mỗi ngày, sau 90 ngày thì lũy tiến lên 0,07%. Như vậy, tính ra tiền phạt chậm nộp mà người nợ thuế phải chịu vào mỗi tháng vẫn thấp hơn lãi suất mà người nợ thuế đi vay phải trả ở các ngân hàng thương mại hiện nay. Điều này khuyến khích người nộp thuế trì hoãn việc nộp thuế làm cho tình trạng nợ đọng tiền thuế với Nhà nước ngày càng gia tăng. Đặc biệt, trong điều kiện chính sách tiền tệ của Nhà nước đang thắt chặt để kìm chế lạm phát, điều kiện vay vốn khắt khe hơn, lãi suất cho vay của ngân hàng tăng cao từ 18% đến 20% một năm, chưa kể các chi phí phát sinh khác.

Từ thực tế này cho thấy, nhiều đối tượng nộp thuế có khả năng nộp thuế, có ý thức nộp thuế nhưng đang thiếu vốn kinh doanh thì việc họ chấp

nhận chịu phạt để lấy vốn kinh doanh là giải pháp có hiệu quả kinh tế được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Vậy các cơ quan Nhà nước phải chăng nên sửa đổi quy định về mức phạt chậm nộp thuế tính bằng 1,5 lần lãi suất cho vay bình quân kỳ hạn 6 tháng của các ngân hàng thương mại hoặc mức phạt tính 0,08% đến 0,1%/ngày tính trên số tiền thuế, tiền phạt chậm nộp. Có như vậy mới ngăn chặn được tình trạng nợ đọng, dây dưa nộp thuế, nộp phạt đang có chiều hướng gia tăng hiện nay.

Hai là, cần bổ sung và quy định chi tiết một số biện pháp thu nợ thuế. Trong pháp luật quản lý thuế hiện hành có quy định về các biện pháp thu nợ thuế nhưng chủ yếu là các biện pháp thu nợ trực tiếp, còn các biện pháp thu nợ gián tiếp chưa được quy định hoặc có quy định nhưng chưa cụ thể, chi tiết (chỉ có quy định ở trong Luật Quản lý thuế, chưa quy định trong văn bản chi tiết, hướng dẫn thi hành hoặc trong quy trình quản lý nợ thuế, cưỡng chế nợ thuế không thấy nhắc đến các biện pháp thu nợ này). Pháp luật của Hàn Quốc quy định, các biện pháp thu nợ bao gồm cả biện pháp trực tiếp và biện pháp gián tiếp. Việt Nam có thể bổ sung quy định về các biện pháp thu nợ gián tiếp. Biện pháp này có khả năng áp dụng bắt buộc cho đối tượng nộp thuế chây ỳ bằng cách điều chỉnh các hoạt động kinh tế - xã hội của đối tượng nộp thuế và gây sức ép để họ trả khoản nợ thuế. Chẳng hạn:

- Áp dụng các biện pháp hạn chế đối với các đối tượng nợ thuế tiến hành hoạt động kinh doang với các cơ quan Nhà nước như: cấm đối tượng nợ thuế ký kết hợp đồng cung cấp hàng hóa dịch vụ với các cơ quan Nhà nước.

- Áp dụng các quy định nghiêm cấm xuất cảnh đối với bất kỳ đối tượng nộp thuế nợ thuế nào.

- Từ chối cấp "Giấy chứng nhận nộp thuế" - một loại giấy bắt buộc phải xuất trình để nhận được tiền thanh toán từ các hợp đồng với các cơ quan Nhà nước. Luật quy định các nhà thầu ký kết thỏa thuận với cơ quan Nhà nước

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

đều phati xuất trình "Giấy chứng nhận nộp thuế" chứng minh rằng nhà thầu không nợ thuế tại thời điểm cấp giấy chứng nhận.

- Cung cấp thông tin nợ thuế cho các tổ chức tài chính khi đối tượng nợ thuế có số nợ thuế lớn hoặc nợ thuế kéo dài hoặc nợ thuế phát sinh 3 tháng trở lên trong 1 năm. Nếu đối tượng nợ thuế thuộc một trong những tiêu chí trên tên của đối tượng nợ thuế sẽ có thể đượ c cung cấp cho hiệp hội ngân hàng, sau đó chuyển cho các tổ chức tài chính liên kết để định giá khoản tiền nợ của chủ thể, giới hạn khoản vay mà đối tượng nợ thuế được vay. Việc cung cấp thông tin nợ thuế cho các tổ chức tài chính được cơ quan quản lý nợ thuế cung cấp hàng quý. Để đối tượng nộp thuế không bị hạn chế về các giao dịch ngân hàng hoặc giao dịch về thẻ tín dụng, khi đối tượng nợ thuế đã nộp đầy đủ hoặc đã cam kết trả dần.

Các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế theo pháp luật Việt Nam - 11

- Thông báo tên của các đối tượng nộp thuế chây ý trên các phương tiện thông tin đại chúng.

- Cần phải quy định rõ điều kiện bắt buộc đối với các đối tượng được hưởng ưu đãi của Nhà nước về thuế, về tín dụng và ưu đãi khác phải là đối tượng không có nợ thuế Nhà nước.

Có thể học hỏi kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc thông báo thông tin của đối tượng nộp thuế. Tại Nhật Bản hiện nay đang phát triển hệ thống quản lý tiên tiến như: phát triển trung tâm điện thoại về tình hình nộp thuế, sử dụng công nghệ thông tin mới nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu nợ. Hệ thống này được sử dụng để nhập các thông tin như kế hoạch hoạt động của công tác thu nợ thuế, nội dung của công tác xử lý nợ thuế và về những biện pháp đã và sẽ thực hiện. Ngoài ra, hệ thống nay sẽ hòa nhập những thông tin trên với cơ sở dữ liệu lưu giữ tại hệ thống KSK kể cả địa chỉ gửi thư, hồ sơ thuế và số thuế nợ. Hiện tại, hệ thống này đang được chạy thử tại một số chi cục thuế và bước đầu đã thu được kết quả khả quan.

Cũng như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có biện pháp thông báo rất hữu hiệu, cụ thể là: Thông báo tên của các đối tượng nộp thuế chây ỳ lớn. Các ứng cử viên có thể bị thông báo tên là những đối tượng nợ thuế có số nợ trên 2 năm và số nợ vượt quá 1 tỷ won. Một số trường hợp ngoại lệ: Nợ thuế trong trường hợp đang trong quá trình khiếu nại, hoặc 30% trở lên của tổng số nợ thuế kể cả các khoản phạt đã nộp,… Theo các chuyên gia quản lý thu nợ thuế Hàn Quốc thì chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu nợ tại Hàn Quốc đó là: phải nâng cao hiệu quả của những công cụ thu thập thông tin, nâng cao tính minh bạch của các hồ sơ giao dịch tài chính – đó là mục tiêu dài hạn.

Thứ tư, bãi bỏ quy định về việc áp dụng tuần tự các biện pháp cưỡng chế hoặc quy định các biện pháp cưỡng chế thuế theo hướng phân biệt rõ hai nhóm đối tượng là cá nhân và tổ chức, doanh nghiệp. Giải pháp này khắc phục hạn chế của các biện pháp cưỡng chế áp dụng chung cho tất cả các đối tượng được quy định trong Luật Quản lý thuế hiện hành đã làm cho việc cưỡng chế nợ thuế thiếu tính linh hoạt, hạn chế hiệu quả công tác quản lý thuế. Chẳng hạn, với biện pháp cưỡng chế là kê biên, bán đấu giá tài sản, việc phân loại thành tài sản kinh doanh và tài sản cá nhân có thể đem lại nhiều lợi ích trong quá trình thực thi. Bởi vì quy định công cụ lao động không phải là loại tài sản được phép kê biên, có lẽ nhà làm luật muốn đề cập tới các loại tài sản thiết yếu gắn liền với quá trình lao động của cá nhân hơn là đối với doanh nghiệp, vì trên thực tế rất khó có thể xác định tiêu chí phân loại công cụ lao động trong khối tài sản của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, cũng rất khó lý giải cho trường hợp các công cụ được coi là công cụ lao động như phương tiện vận tải, hệ thống máy móc, thiết bị văn phòng,... lại không thể được kê biên.

Theo Cục trưởng Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh Lê Kiên Trung phát biểu trên trang web của Hải quan Việt Nam: "Một số quy định của Luật

tạo thuận lợi cho người nộp thuế rất nhiều nhưng lại không tạo điều kiện để cơ quan quản lý thuế thực thi nhiệm vụ. Ví như, trong luật quản lý thuế quy định 6 bước cưỡng chế, nhưng thực chất, đó không phải các bước, mà là các phương pháp khác nhau, ví như là phương pháp qua ngân hàng để cưỡng chế tài sản doanh nghiệp hoặc siết nợ, siết tài sản doanh nghiệp. Các phương pháp này không liên quan đến nhau, nhưng lại buộc cán bộ phải thực hiện theo tuần tự. Vì vậy, trong khi thực hiện, cán bộ bị vướng và bị bó nhiều. Theo tôi, cần phải cho phép áp dụng các phương pháp thích hợp, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện phù hợp, không nên bắt buộc cứng nhắc việc thực hiện tuần tự theo các bước (mà thực chất lại là các phương pháp). Hiện nay, chúng ta đang cải tiến các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng chúng ta lại quên mất rằng, các cơ quan thực thi pháp luật cũng cần phải được tạo thuận lợi. Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp là tốt, nhưng nếu không thuận cho cơ quan pháp luật thì việc thu thuế sẽ khó, dẫn đến tiền thuế của nhà nước dành để phục vụ cho đại bộ phận dân chúng lại không được đảm bảo”.

- Cần quy định rõ dấu hiệu để xác định người nợ tiền thuế, tiền phạt có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn. Bởi vì trong luật và các văn bản hướng dẫn không giải thích thế nào là hành vi phát tán tài sản, bỏ trốn hoặc những dấu hiệu thể hiện hành vi này. Bên cạnh đó, cũng cần phải có quy định đầy đủ hơn về cơ sở pháp lý cho một số biện pháp cưỡng chế để đảm bảo hiệu quả áp dụng trên thực tế, đặc biệt là quy định về thu tiền, tài sản của đối tượng nộp thuế do người thứ 3 nắm giữ và quy định về thu hồi mã số thuế.

Thứ năm, cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống thông tin để cơ quan quản lý thuế có cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ, chính xác về người nộp thuế, nhằm kiểm soát được tất cả đối tượng chịu thuế, bảo đảm dự báo nhanh, chính xác số thu Ngân sách Nhà nước, phát hiện và

xử lý kịp thời những vướng mắc, vi phạm pháp luật về thuế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nợ thuế. Như vậy, hệ thống thông tin về người nộp thuế phải đảm bảo các yêu cầu sau:

- Hệ thống thông tin về người nộp thuế phải đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế.

- Hệ thống thông tin về người nộp thuế phải bao gồm các thông tin cơ bản như: thông tin về đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, thông tin về kế toán tài khoản thuế của người nộp thuế; thông tin kết quả sản xuất kinh doanh; thông tin về tình hình chấp hành pháp luật thuế; thông tin khác liên quan đến quá trình hoạt động, giao dịch của người nộp thuế. Bởi vậy, thông tin về người nộp thuế phải thu thập, khai thác từ nhiều kênh, nhiều nguồn và bằng nhiều hình thức khác nhau như từ người nộp thuế, từ nội bộ cơ quan quản lý thuế, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức tài chính, các cá nhân, tổ chức khác có liên quan. Nếu có đầy đủ các thông tin trên thì việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế sẽ thuận lợi và nhanh chóng hơn.

Đồng thời, pháp luật quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc tiếp nhận, quản lý, sử dụng thông tin về người nộp thuế, trách nhiệm phối hợp cũng cấp, trao đổi thông tin về người nộp thuế với các cơ quan liên quan nhằm phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Đây là khâu yếu nhất ở nước ta trong thời gian qua và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều đối tượng trốn lậu thuế với số lượng lớn, có hệ thống nhưng cơ quan thuế chưa kịp thời phát hiện để xử lý.

- Thông tin về người nộp thuế phải đảm bảo tính chính xác, trung thực, đảm bảo độ tin cậy cao.

Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc, việc cung cấp thông tin nợ thuế cho các tổ chức tài chính ở nước này được xem là một trong những biện pháp thu

nợ khá hiệu quá, mọi tờ khai thuế và tờ khai thông tin được chuyển cho Tổng cục thuế và đảm bảo tính bảo mật. Vì vậy, trừ những trường hợp quy định tại luật, các thông tin liên quan đến thuế không thể được tiết lộ ra bên ngoài. Tuy nhiên, một trong những trường hợp loại trừ là cung cấp thông tin nợ thuế cho các tổ chức tài chính nếu đáp ứng những tiêu chí sau: số nợ thuế vượt

5.000.000 won và kéo dài trong 1 năm kể từ khi phát sinh khoản nợ; nợ thuế phát sinh 3 lần trở lên trong 1 năm và số nợ vượt 5.000.000 won; số nợ thuế không thể thu được vượt 5.000.000 won. Nếu đối tượng nộp thuế thuộc một trong các tiêu chí trên, tên của đối tượng nợ thuế và số thuế nợ sẽ có thể được cung cấp cho Hiệp hội Ngân hàng, sau đó chuyển cho các tổ chức tài chính liên kết để định giá khoản trả nợ. Thông tin này sẽ giúp các tổ chức tài chính định giá về khả năng trả nợ của các cá nhân và doanh nghiệp. Nếu họ xác định đối tượng nộp thuế đứng trước rủi ro đáng kể, họ có thể giới hạn khoản vay mà đối tượng nộp thuế được hưởng. Việc cung cấp thông tin nợ thuế cho các tổ chức tài chính được Tổng cục thuế cung cấp hàng quý. Để đối tượng nộp thuế không bị hạn chế về các giao dịch ngân hàng hoặc giao dịch về thẻ tín dụng, đối tượng nộp thuế phải nộp nợ thuế đầy đủ hoặc cam kết trả dần.

Căn cứ theo Luật về Giao dịch tài chính với danh nghĩa thực và bảo đảm về tính bảo mật, chi cục thuế có thẩm quyền yêu cầu các tổ chức tài chính cung cấp những thông tin tài chính nhất định nhưng chỉ có thể thu thập được thông qua những chi nhánh nhất định mà đối tượng nộp thuế nợ thuế mở tài khoản. Vì vậy, trên thực tế, khi không có sự hợp tác của đối tượng nộp thuế, các chi cục thuế không thể xác định được các chi nhánh nhất định mà đối tượng nộp thuế mở tài khoản và ra lệnh thu thuế các tài khoản tương ứng. Vì vậy, biện pháp này có thể không được hiệu quả cho lắm.

Ngoài ra, pháp luật của nước này cho phép các chi cục thuế được thu thập các thông tin tài chính cần thiết từ các trụ sở chính của các tổ chức tài

chính với từ tham chiếu en bloc mà không yêu cầu các chi nhánh của các tổ chức tài chính. Từ tham chiếu này cho phép Tổng cục thuế truy cập thông tin tài chính của đối tượng nộp thuế nợ thuế qua việc tiếp cận trung tâm máy tính của trụ sở chính của các tổ chức tài chính. Với việc áp dụng biện pháp này, các tài sản tài chính đã bị cất để tránh lệnh thu thuế đã bắt đầu thu được. Do đó, có thể thu được nợ thuế càng nhiều càng tốt với chi phí quản lý càng ít càng tốt.

Thứ sáu, cần tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quản lý nợ thuế thông qua việc tiếp tục rà soát, cắt bỏ, sửa đổi một số thủ tục hành chính trong quản lý nợ. Bởi vì một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế gia tăng đối với các doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh là do thủ tục hành chính trong kê khai, nộp thuế phức tạp, tốn phí nhiều thời gian, công sức và chi phí của đối tượng nộp thuế.

Thứ bảy, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện cơ chế đảm bảo thực hiện các quy định của pháp luật quản lý nợ thuế. Ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về các biện pháp cưỡng chế nợ thuế, cần phải hoàn thiện các quy định của các bộ phận pháp luật khác có liên quan nhằm đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống, tính khả thi, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta trong từng giai đoạn và phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế. Đồng thời, cần chú trọng công tác phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý nợ thuế, tăng cường bổ sung lực lượng, tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nợ thuế nói riêng và quản lý thuế nói chung. Ngoài ra, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác hướng dẫn, tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người nộp thuế đối với Nhà nước.

Thứ tám, hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý thuế.

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 10/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí