thu nợ qua bên thứ 3, thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng,… Cục cũng đã phối hợp với một số cơ quan chức năng để điều tra nợ đọng thuế, khởi tố một số đơn vị, tuy nhiên, các doanh nghiệp nợ lớn vẫn không nộp được khá hơn. Một số doanh nghiệp khi cán bộ thuế đến thể hiện thái độ không hợp tác.
Ngoài ra, trong công tác thu và quản lý nợ thuế, lãnh đạo các chi cục thuế cũng cho biết: công tác xác minh và kiểm tra thông tin để xác định tính trung thực, hợp pháp tài sản để áp dụng các biện pháp cưỡng chế còn gặp nhiều khó khăn. Công tác thu thập, xác minh và kiểm tra thông tin qua các bước để thực hiện một biện pháp cưỡng chế tốn nhiều công sức, thời gian và chi phí. Đặc biệt là khi có sự thay đổi về Luật Quản lý Thuế áp dụng từ ngày 1/7/2013. Công tác phối hợp với các tổ chức, ngân hàng để cung cấp thông tin tài khoản khi có quyết định cưỡng chế còn chậm, tài sản hầu hết đã thế chấp tại ngân hàng nên khi kê biên xong cũng khó bán tài sản đã kê biên để thu tiền nộp vào Ngân sách Nhà nước.
2.2.4. Nguyên nhân:
*Nguyên nhân khách quan:
Việc để nợ thuế trong năm tiếp tục gia tăng, theo lãnh đạo Tổng cục thuế, ngoài nguyên nhân khách quan như nhiều doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn về tài chính do khùng hoảng tài chính toàn cầu nên tình hình kinh tế trong nước diễn biến phức tạp, lạm phát, giá cả tăng cao, hàng hóa khó tiêu thụ. Nhà nước áp dụng các chính sách kìm chế lạm pháp, thắt chặt tín dụng dẫn đến các đơn vị gặp nhiều khó khăn về vốn, nhiều đơn vị thua lỗ khó có khả năng thanh toán nợ… Thực tế quản lý nợ cho thấy không ít doanh nghiệp đã giải thể, phá sản song nợ thuế vẫn bị treo, một số doanh nghiệp lại đang trong quá trình khiếu nại về cơ chế, chính sách nên chưa chịu hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Bên cạnh những nguyên nhân xuất phát từ yếu tố kinh tế, còn một nguyên nhân quan trọng nữa là sự bất cập của các quy định pháp luật. Xuất phát từ thực tế cơ chế chính sách chưa được bổ sung, sửa đổi phù hợp nên nhiều trường hợp đề nghị gia hạn nộp thuế, xóa nợ thuế, miễn phạt chậm nộp nhưng không xử lý được.
*Nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến hiện tượng nợ đọng thuế gia tăng bắt nguồn từ nội tại ngành thuế, đặc biệt là những bất cập trong công tác quản lý và vi phạm của các cán bộ, công chức thuế.
Về những bất cập trong công tác quản lý, tại một số cục thuế, chi cục thuế, công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế chưa được quan tâm đúng mức, thiếu kiên quyết chỉ đạo áp dụng kịp thời các biện pháp thu hồi nợ đọng. Việc nợ đọng thuế gia tăng còn có nguyên nhân là do đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nợ chưa được bố trí đầy đủ, kịp thời. Hiện tại, toàn ngành có khoảng 2.600 cán bộ (chiếm khoảng 6% tổng số biên chế ngành thuế) làm công tác quản lý và cưỡng chế nợ thuế, nhưng phải quản lý số nợ tương đối lớn. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ, công chức thuế, đặc biệt là ở cấp cơ sở còn chưa nắm bắt kịp thời về kiến thức quản lý nợ thuế mới nên còn bỡ ngỡ trong triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, trách nhiệm quản lý, đôn đốc thu nộp thuế của một số đơn vị thu, cán bộ quản lý nợ thuế chưa cao, chưa bám sát địa bàn để thường xuyên đôn đốc các cơ sở sản xuất – kinh doanh nộp thuế kịp thời hàng tháng, quý; công tác phối hợp về xử lý nợ thuế thực hiện chưa toàn diện, chưa thường xuyên, đặc biệt là các biện pháp cưỡng chế nợ thuế. Vì vậy, cho nên ít có tác dụng giáo dục, răn đe đối với những người nợ thuế, do đó, tình trạng nợ đọng thuế còn dây dưa, kéo dài.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Thi Hành Pháp Luật Về Các Biện Pháp Cưỡng Chế Thi Hành Nghĩa Vụ Nộp Thuế Ở Nước Ta Hiện Nay:
- Những Bất Cập Trong Công Tác Thu Hồi Nợ Thuế Và Cưỡng Chế Nợ Thuế Tại Một Số Địa Phương:
- Các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế theo pháp luật Việt Nam - 9
- Các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế theo pháp luật Việt Nam - 11
- Các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế theo pháp luật Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
Ngoài ra, một nguyên nhân khác là do các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức ngành thuế. Trên thực tế xuất hiện một số hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật về quản lý nợ thuế, cưỡng chế nợ thuế của một số cán bộ, công chức quản lý nợ thuế như: đòi hỏi thủ tục xóa nợ thuế ngoài quy định, kéo dài thời gian giải quyết xóa nợ thuế cho người nộp thuế, thông đồng với người nộp thuế lập hồ sơ để xóa nợ thuế không đúng quy định hoặc làm tăng số thuế được xóa nợ, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước. Thiếu trách nhiệm, không thực hiện đôn đốc, áp dụng các biện pháp đã được quy định để thu hồi các khoản nợ thuế, thông đồng với người nộp thuế, cố tình làm sai các quy định quản lý thu nợ, gia hạn nộp thuế không đúng quy định, tạo điều kiện cho người nộp thuế dây dưa, nợ đọng kéo dài, chiếm dụng tiền thuế nợ đọng để hưởng lợi, thu nộp tiền thuế chưa kịp thời, đúng quy định, có trường hợp cán bộ, công chức thuế còn xâm tiêu tiền thuế. Chính từ nguyên nhân này đã làm giảm hiệu quả trong quản lý nợ thuế nói chung và trong việc thực hiện biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ thuế nói riêng.
Đối với người nộp thuế, còn có đối tượng do kiến thức hạn chế, chưa tiếp cận hiểu rõ các chính sách pháp luật thuế, phương thức quản lý thuế mới hoặc do ngại phải thực hiện các thủ tục hành chính phiền hà, phức tạp dẫn đến vi phạm chậm nộp tiền thuế, tiền phạt. Một số đối tượng nhận thức về nghĩa vụ nộp thuế chưa cao, nhiều trường hợp đã được đôn đốc, nhắc nhở nhiều lần nhưng vẫn cố tình nợ; còn có trường hợp cơ quan sở kinh doanh đã giải thể, tạm ngưng hoặc nghỉ kinh doanh nhưng không khai báo, cơ quan thuế tiếp tục tính thuế dẫn đến treo nợ khống,…có doanh nghiệp cố tình dây dưa, chiếm dụng tiền thuế do lợi dụng những bất cập trong quy định của pháp luật (lãi suất vay ngân hàng lớn hơn tỷ lệ phạt chậm nộp), hoặc do trình độ, năng lực quản lý của bộ máy quản lý nợ thuế còn nhiều hạn chế,…, các chế tài liên
quan đến công tác cưỡng chế nợ chưa đủ mạnh để răn đe các hành vi vi phạm, nợ đọng thuế.
Do công tác chỉ đạo phối hợp chưa được tích cực, đồng bộ, chưa tạo điều kiện cho cơ quan thuế quản lý tốt các khoản thu Ngân sách Nhà nước của cấp chính quyền, các ngành, các đơn vị, cá nhân liên quan trong công tác thu nợ thuế. Công tác tuyên truyền, phê phán các đối tượng nợ thuế chưa được thường xuyên, chưa tạo sức ép dư luận xã hội cần thiết đối với các đối tượng nợ thuế cố tình chây ỳ, dây dưa. Công nghệ thông tin phục vụ cho công tác quản lý nợ thuế chưa đầy đủ, chưa hỗ trợ tốt cho việc quản lý thuế nói chung và quản lý nợ thuế nói riêng.
Những hạn chế, yếu kém trong quản lý nợ thuế thời gian qua có nguyên nhân quan trọng cũng một phần là do việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nợ thuế còn gặp nhiều khó khăn, do khuôn khổ pháp lý về cưỡng chế nợ thuế chưa hoàn thiện và chưa hợp lý. Luật Quản lý thuế hầu hết còn quy định khá cứng nhắc về nguyên tắc thực hiện các biện pháp cưỡng chế nợ. Theo đó, chỉ khi không thực hiện được biện pháp cưỡng chế quy định trước thì mới được thực hiện biện pháp cưỡng chế tiếp theo. Tuy nhiên, những biện pháp khả thi nhất thì lại là biện pháp thực hiện sau.
Theo ông Cao Huy Thảo – Trưởng Phòng Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế Cục thuế tỉnh Khánh Hòa phát biểu trên báo Khánh Hòa về những khó khăn trong quản lý nợ thuế thì công tác cưỡng chế hành chính thu hồi nợ thuế hiện đang gặp rất nhiều vấn đề khúc mắc. Các doanh nghiệp đủ điều kiện cưỡng chế phần lớn là doanh nghiệp ngoài quốc doanh để nợ kéo dài, tiền chậm nộp lớn nên đến thời điểm cưỡng chế, số nợ đã lên rất lớn. Khi thực hiện các biện pháp cưỡng chế, tài khoản của các doanh nghiệp tại các ngân thương mại không còn tiền hoặc còn rất ít, hoặc chỉ còn lại tài sản thế chấp vay vốn.
Việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ thuế cũng gặp khó khăn do khâu phối hợp xác minh thông tin của người bị cưỡng chế rất khó thực hiện. Người bị cưỡng chế luôn né tránh việc cung cấp thông tin cho cơ quan thuế, cố tình kéo dài thời gian cưỡng chế bằng cách như nhận công văn không trả lời, mời làm việc không đến,… Công tác cưỡng chế bằng biện pháp kê biên tài sản còn khó thực hiện vì hầu hết các doanh nghiệp thua lỗ bỏ trốn, rơi vào tình trạng phá sản, không hợp tác với cơ quan thuế. Tuy một số doanh nghiệp có cung cấp thông tin tài sản nhưng tài sản kê khai lại không có tại địa phương mà doanh nghiệp đang hoạt động (tài sản không thuộc diện đăng ký quyền sở hữu).
Việc cưỡng chế bằng biện pháp thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng cũng không dễ thực hiện, nhất là các trường hợp né trành cung cấp thông tin về lượng hóa đơn tồn đến thời điểm ban hành quyết định cưỡng chế. Bên cạnh đó, một số trường hợp doanh nghiệp thuê địa điểm để đặt văn phòng nhưng thực tế không hoạt động kinh doanh tại nơi đã đăng ký. Điều này gây khó khăn trong việc tiếp xúc với doanh nghiệp để thực hiện đôn đốc thu hồi nợ thuế. Đa số doanh nghiệp có số vốn đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lớn nhưng thực tế lại không đúng với số vốn đã đăng ký, vì vậy, khi nợ thuế không có tài sản để thực hiện các biện pháp cưỡng chế.
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế ở Việt Nam:
a. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật:
Xuất phát từ thực trạng pháp luật quản lý nợ thuế còn tồn tại nhiều bất cập, gây khó khăn cho quá trình quản lý nợ thuế trong thực tế, các quy định của pháp luật về quản lý nợ thuế còn chưa cụ thể rõ ràng, đặc biệt là về cưỡng chế nợ thuế, thiếu một số quy định cần thiết và tính khả thi chưa cao. Để việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nợ thuế có hiệu quả, thì trước hết cần phải hoàn thiện pháp luật về quản lý nợ thuế. Nếu làm tốt công tác quản lý nợ thuế thì sẽ hạn chế việc phải áp dụng cưỡng chế nợ, hoặc có áp dụng thì cũng sẽ đảm bảo tính chính xác cao.
Xuất phát từ thực tiễn thi hành pháp luật quản lý nợ thuế, đặc biệt là những hạn chế, bất cập đã và đang nảy sinh trong quá trình thực hiện pháp luật quản lý nợ thuế, đòi hỏi phải thay thế, bổ sung, sửa đổi các quy định không còn phù hợp hoặc chưa đầy đủ để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ nói chung và công tác cưỡng chế nợ nói riêng, để hạn chế tình trạng nợ đọng thuế và các hiện tượng tiêu cực đã và đang nảy sinh. Đồng thời nâng cáo ý thức, trách nhiệm của người nộp thuế, các cấp, các ngành và cộng đồng xã hội trong việc thi hành pháp luật thuế.
Xuất phát từ yêu cầu của quá trình quản lý nợ thuế nói chung và các biện pháp cưỡng chế nợ thuế nói riêng theo hướng minh bạch, rõ ràng, đơn giản, thống nhất, bảo đảm dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, dễ giám sát. Đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác cưỡng chế nợ thuế - một trong
những nội dung quan trọng của công tác quản lý nợ thuế nhằm ngăn ngừa tình trạng nợ đọng thuế, đảm bảo công bằng xã hội và hiệu lực của quản lý thuế.
Hoàn thiện pháp luật về quản lý nợ thuế nói chung và pháp luật về các biện pháp cưỡng chế nợ thuế nói riêng để góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đồng thời thực hiện mục tiêu của công tác quản lý nợ thuế trong giai đoạn mới là nâng cao năng lực quản lý thuế ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
b. Mục tiêu:
Việc hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế nợ thuế ở Việt Nam nhằm các mục tiêu sau đây:
- Để đảm bảo thực hiện tốt pháp luật thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ, hạn chế ở mức thấp nhất tình trạng nợ đọng thuế, đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao hiệu lực quản lý thuế.
- Tạo cơ sở pháp lý và điều kiện cần thiết cho công tác cải cách và hiện đại hóa công tác quản lý nợ thuế. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý cũng như xử lý nợ, đáp ứng cơ chế tự khai, tự nộp thuế, người nộp thuế tự chịu trách nhiệm, tự giác trong việc kê khai, tính thuế, nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước. Góp phần hướng tới xây dựng ngành thuế Việt Nam tiên tiến, hiện đại, chuyên nghiệp, ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực.
- Bảo đảm cho pháp luật quản lý thuế nói chung phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, đáp ứng nhu cầu về hội nhập kinh tế.
- Phục vụ cho yêu cầu cải cách hành chính theo hướng đơn giản, minh bạch, rõ ràng, công khai, dân chủ, dễ hiểu, dễ làm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước và cộng đồng xã hội trong thực hiện luật thuế.
c. Yêu cầu:
- Phải nâng cao hiệu quả pháp lý đối với các quy định về quản lý nợ thuế nói riêng và về các biện pháp cưỡng chế nợ thuế, đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất trong xử lý nợ thuế. Qua đó, nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, cá nhân, tổ chức và cộng đồng xã hội trong việc thực hiện pháp luật thuế.
- Tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế trên cơ sở đề cao sự tự giác tuân thủ pháp luật của người nộp thuế, đồng thời cũng phải có những chế tài nghiêm khắc đối với các chủ thể cố tình dây dưa nợ thuế, ảnh hưởng tới nguồn thu Ngân sách Nhà nước.
- Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế nợ thuế trên cơ sở kế thừa các quy định trước đó trong các văn bản hiện hành, thay thế, sửa đổi các quy định không còn phù hợp, bổ sung các quy định mới cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu cải cách quản lý thuế nói chung, và cải cách công tác quản lý nợ thuế nói riêng theo hướng hiện đại, trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các nước tiên tiến, các chuẩn mực quốc tế, đảm bảo tính tương đồng với pháp luật của các nước nhưng phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta.
- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế nợ thuế phải đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan.
3.2. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế ở Việt Nam:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung một số điều trong Luật Quản lý thuế hiện nay liên quan đến quản lý nợ thuế và đặc biệt là các biện pháp cưỡng chế nợ thuế trên cơ sở hệ thống hóa các quy phạm pháp luật trong các văn bản quản lý thuế hiện nay, nâng cao giá trị pháp lý của một số quy định trong Nghị