Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa - 3

tình của Tản Đà... có sự tương giao đồng điệu của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc của thiên nhiên.

Ở cuối tác phẩm, như một lời vĩ thanh, tác giả một lần nữa đã nhắc đến những thăng trầm lịch sử đã đi qua dòng sông trữ tình và sử thi này, lí giải tên của dòng sông bằng một chi tiết đặc biệt: “vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bên bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông, để làn nước thơm tho mãi mãi”.

Hiện nay sông Hương không còn được như ngày trước nữa, một phần là bởi sự phát triển ngày càng nhanh chóng mức độ đô thị hóa, kèm theo đó là ý thức của người dân chưa cao. Nhưng với Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ giữ lại cho Huế, cho cố đô tất cả vẻ đẹp nguyên sơ, khi dịu dàng, khi dữ dội của sông Hương, lưu giữ những trầm tích văn hóa Huế.

2.2. Đời sống tinh thần của người dân xứ Huế qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Cùng với dòng chảy của nó, sông Hương còn chuyên chở cả dòng văn hóa tâm linh, văn hóa tinh thần của người dân xứ Huế. Theo bước chân của nhân vật “tôi”, ta như bồng bềnh giữa cõi thực và cõi mơ, cảm nhận âm hưởng sâu thẳm của Huế, từ những gian truân mà dòng chảy của nó vượt qua, để hiểu thấu cái phần mà “dòng sông hình như không muốn bộc lộ”.

Sông Hương sau đoạn vượt qua cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, được Hoang Phủ Ngọc Tường ví như người con gái đẹp đang “ngủ mơ màng” được đánh thức bởi “người tình mong đợi”. Sông Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục” khi vừa ra khỏi rừng. Nó như nôn nóng đi tới gặp người tình - thành phố tương lai của nó. Nó đã “vòng những khúc quanh đột ngột”. Nó đã “uốn mình theo những đường cong thật mềm...”.

Con sông Hương được nhân hóa như đang làm duyên đang múa lượn. Sông Hương lúc thì trôi theo hướng sang tây bắc vòng qua bãi Nguyệt Biều, Lương Quán. Rồi nó “đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc ôm lấy đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Dòng chảy của sông Hương qua các địa danh ngã ba Tuần, điện Hoàn Chén, Ngọc Trản, bãi Lương Biều, Lương Quán, Vọng cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo,... được tác giả vẽ ra, nhắc lại một cách chính xác. Những địa danh ấy, ngoài việc thể hiện những kiến thức về địa lí, văn hóa còn cho thấy sự am tường của Hoàng Phủ Ngọc Tường về vấn đề tâm linh. Trước khi dòng chảy vòng qua trung tâm của thành phố, sông Hương đã đi qua những vùng đất linh thiêng, ôm vào lòng nó tất cả sự diệu kì.

Sông Hương ở đoạn chảy qua điện Hòn Chén đã mang theo nhiều giai thoại. Dân gian còn lưu truyền rằng điện Hoàn Chén có ý nghĩa là “trả lại chén ngọc”, vì vua Minh Mạng trong một lần lên đây đã đánh rơi một chén ngọc xuống dòng Hương, tưởng không cách gì lấy lại được thì bỗng nhiên một con rùa to bằng chiếc chiếu nổi lên ngậm chén ngọc trả lại cho nhà vua! Trước điện là một cái vực rất sâu chưa ai đo được. Xưa kia, lắm người chài ngư nổi danh bơi lội cũng không lặn tới đáy sông được. Người ta tin rằng, vua Hà Bá ngự trị ở chốn này. Ghe thuyền mỗi khi đi qua đều im hơi lặng tiếng để tỏ lòng thành kính. Tương truyền nhiều người bị đắm thuyền chết đuối chỉ vì đã ngạo mạn với Mẫu thần. Nơi đáy vực có con ba ba to bằng chiếc chiếu rộng, mỗi lần nổi lên thường gây sóng gió dữ dội, mọi người lúc bây giờ đều tin đó là sứ giả của thần Hà Bá. Thấy dân chúng bị nạn, trong một buổi cúng tế, vua Tự Đức đã đeo vào tay thần một chuỗi bồ đề để cầu xin lòng từ bi cho chúng sanh. Người ta còn kể rằng, trong một hốc đá ở bợt bến, có một con cá trạch lớn như chiếc chiếu, thỉnh thoảng vụt lên mặt nước làm tung bọt trắng xóa. Dân chúng hoảng hốt sợ, không dám gọi là "con" mà gọi bằng "cố"- Cố Trạch. Trong số mười ba vị vua triều Nguyễn thì vua Đồng Khánh là một tín

đồ rất ngưỡng mộ vị Thánh Mẫu này. Vua Đồng Khánh còn làm thơ văn ca tụng công đức của Mẫu Thiên Yana. Chính vua đã ban hành việc dùng Quốc lễ để tế tại Huệ Nam Điện. Theo lệnh vua, vào dịp xuân - thu nhị kỳ hằng năm đều tổ chức tế lễ, vị chủ tế là một triều thần. Tại Huế vẫn truyền tụng câu ca “Tháng 7 Vía Cha, tháng ba Vía Mẹ” là nói đến 2 lễ tế này. Sau vua Đồng Khánh, các vị vua chỉ cử quan thần tới chủ tế một lần vào tháng ba, còn tháng bảy dân làng Hải Cát tự tổ chức. Nghi lễ tại Ðiện Hòn Chén rất long trọng. Dân làng tổ chức tế tại đình, trước ngày chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị thần trong làng về đình.

Chùa Thiên Mụ được mệnh danh là “đệ nhất cổ tự Huế”. Chùa còn có tên là Linh Mụ, là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, ở phía tả ngạn sông Hương. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm 1601 - đời chúa Nguyễn Hoàng - vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn. Chùa thiên Mụ không chỉ là điểm quy hướng tâm linh của cộng đồng mà còn là nơi thường diễn ra các quốc lễ, các nghi lễ Phật giáo quan trọng kể từ đầu thế kỷ XVII.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 27 trang tài liệu này.

Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã nhắc tới một trong những nét đẹp truyền thống nơi đây đó chính là những lễ hội và đặc biệt hơn đối với “tôi” đó

là “hội vật làng Sình”. “Tôi đã có dịp đi xem hội vật Đông Anh và Kiếp Bạc”, không phải đơn thuần là những hội vật mà đó là cả một dòng chảy, dòng chảy của truyền thống dòng chảy của những lễ hội và cả những nét đặc sắc về văn hóa truyền thống. Đây là nét đẹp truyền thống xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có nhắc đến một lễ hội đặc biệt “nay tôi đến hội vật Sình những nơi mà ông cha đã trải nhiều thời đánh thắng giặc trên sông nước”, đó không phải chỉ là một lễ hội đơn thuần mà nó còn là dấu ấn khó phai về dòng chảy tâm linh đối với con người xứ Huế. Lễ hội được tổ chức vào ngày 10 tháng Giêng âm lịch hàng năm và được tổ chức tại đình làng Lại Ân (còn gọi là làng Sình), xã Phú Mậu, huyện Phú Vang (Thừa Thiên – Huế). Đây là một hoạt động văn hóa truyền thống, giàu tinh thần thượng võ của con người xứ Huế. Các đô vật sẽ thi đấu theo thể thức vòng tròn. Những người già ở làng Sình kể lại hội vật truyền thống của làng đã có lịch sử hơn 200 năm và phát triển liên tục cho đến ngày hôm nay.

Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa - 3

Hội vật làng Sình rất chú trọng tinh thần thượng võ vì thế các đô vật không được sử dụng các đòn thế nguy hiểm đến tính mạng của đối thủ, ... Một nét đặc biệt nữa ở hội vật này đó chính là tất cả mọi đô vật không dành chiến thắng đều được nhận một phần quà từ ban tổ chức, hội vật còn thể hiện rõ tinh thần đồng đội giữa các địa phương, một đô vật của làng nào bị thua sẽ có đô vật khác lên tiếp sức. Nếu để thua một trận các đô vật sẽ phải trờ đến năm sau mới đấu lại được, vì thế các đô vật thường rèn luyện suốt năm, tu dưỡng đạo đức để tới đầu năm có dịp lại tiếp tục tham gia giải đấu vật. Nét truyền thống ấy vẫn cứ tiếp tục chảy trôi cho tới tận ngày hôm nay, mỗi một đô vật khi tham gia đều đã chuẩn bị sẵn sàng cho lượt đấu của năm sau qua một năm rèn luyện. Đây cũng chính là yếu tố mong cho dân khỏe, làng yên, mùa màng tươi tốt, hạnh phúc đến với muôn người còn là một hoạt động vui, khỏe đầy tinh thần thượng võ, kích thích việc rèn luyện sức khỏe, lòng dũng cảm, sự tự tin,

mưu trí đối với lớp trẻ.

Vẻ đẹp của Huế đã in đậm trong Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ bởi cảnh sắc thiên nhiên nơi đây hay những ngày lễ hội. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế còn in đậm trong ông bằng một màu sắc đặc biệt của “sắc áo cưới”. Hoàng Phủ Ngọc Tường có viết: “Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nắng đem áo ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: Màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh tràm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng sau bóng người, thửa ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng.”. Màu sắc áo cưới ấy đã từng khơi gợi trong ông biết bao nhiêu là sự hiếu kì để rồi làm nảy nở một thứ tình cảm đặc biệt đối với nơi đây mà chính tác giả không thể nào lí giải được.

Chuyện cũ kể rằng, khoảng thời gian thập niên 30, áo dài màu tím là đồng phục của nữ sinh trung học Đồng Khánh Huế và nhanh chóng trở thành mầu thời trang xứ Huế. Có phải màu thiên nhiên nơi đây đã nhuộm tím chiếc áo nữ sinh trong hoàng hôn qua cầu Trường Tiền và bến đò Thừa Phủ? Hay như khúc Nam Ai vương cung bậc buồn thương của Chiêm Thành, áo dài nơi đây nhuộm một màu tím ngát bởi những chiêm nương xưa trên vùng Ô Rí cũng ưa thích một màu tím hoang sơ…?

Tuy nhiên, thiên nhiên Huế muôn đời vẫn thế và dòng chảy văn hóa Huế vẫn âm thầm bạo liệt để một ngày áo dài trắng nữ sinh và tà áo tím xưa trở lại. Không hẹn mà gặp và cũng không ai qui định nhưng áo dài tím Huế bây giờ đã trở thành màu áo chủ đạo của đội ngũ nữ hướng dẫn viên ngày ngày đưa du khách đến thăm các di tích cố đô. Màu tím ngát mịn màng của hoàng hôn, sông nước, cỏ cây xứ Huế tương thích với kiến trúc lăng tẩm, đền đài, cổ tự, danh lam khi các kiến trúc nơi đây đều hài hoà với thiên nhiên xứ Huế. Sáng chiều giữa di tích Huế, các hướng dẫn viên với tà áo tím và nón bài thơ toả đi khắp nơi đã tạo nên một nét mới trong văn hóa du lịch vùng đất

này. Các đoàn khách thường đề nghị cô hướng dẫn mặc áo dài tím Huế khi hướng dẫn hoặc ít ra cũng mặc một lần trong nhiều buổi tham quan Huế. Không may giữa rừng áo tím một sớm mai, một hường dẫn viên mang màu áo khác sẽ cảm thấy mình lạc lõng giữa các đồng nghiệp và xa lạ ngay với chính đoàn khách mà mình đang hướng dẫn.

Áo dài tím đã trở thành thông điệp của văn hóa học với du khách gần xa. Áo dài tím trang nhã mà kín đảo, gần gũi nhưng không hòa nhập như chức năng của người hường dẫn đối với khách tham quan. Du khách có thể giao hoà, cùng đệm hò với nghệ sĩ trong một đêm ca Huế trên sông, có thể hòa tan cùng hát với ca sĩ trên sân khấu đèn màu nhưng giữa người hướng dẫn và khách tham quan có một khoảng cách nhất định, giữa lòng di tích chỉ có quá khứ và hiện tại, chỉ có giá trị di sản và khách tham quan mà người hướng dẫn là chiếc cầu nối giữa đôi bờ đó. Áo dài tím Huế gần mà xa là thế.

Màu tím Huế đã phục hưng trong đời sống hôm nay. Có một hội trại của thanh niên trên vùng gò đồi Tây Nam Huế đã dành một buổi để mọi người trèo núi Bãng Lãng ngắm hoàng hôn tím Huế. Ngũ sắc Huế là lục, xanh, đỏ, tím, vàng trên hệ thống chiếu sáng cầu Trường Tiền về đêm – màu tím ngát, tím rịm lòng người không chỉ là du khách muôn nơi mà chính cả lòng người cố xứ. Mỗi dịp về đêm qua cầu Trường Tiền ngũ sắc luân phiên, tôi lại điều chỉnh tốc độ xe để làm sao được đi giữa Trường Tiền tím ngát.

Và ở một hàm nghĩa rộng hơn, nếu hiểu tâm linh là trí tuệ và tinh thần, thì Sông Hương cũng thấm đẫm tinh thần của thời đại. Sông Hương không còn là cô gái “Di gan man dại”, không còn là “người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa”, mà trở thành chứng nhân của biến thiên lịch sử. Cách so sánh, ví von của nhà văn thật độc đáo. Nếu Nguyễn Tuân đã từng so sánh nước với lửa khi miêu tả sông Đà hung bạo: “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa đổ

lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại so sánh nước với cái trừu tượng thiêng liêng là những trang sử của dân tộc. “Sông Hương là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Ví sông Hương như “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhấn mạnh sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và chất trữ tình, sông Hương là một bản hùng ca, đồng thời giữa đời sông Hương là một bản tình ca… Phải chăng khi viết những dòng sử thi giữa màu cỏ lá xanh biếc, nhà văn nghe vọng về từ sâu thẳm câu hò Huế mang chứa nỗi niềm của con người vùng đất cố đô:

“Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm

Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông Thuyền ai thấp thoáng bên sông

Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non...”

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử; từng nhánh rẽ của dòng sông, đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò của sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại vua Hùng, sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong những thế kỉ trung đại, với tên gọi là Linh Giang, nó đã “oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ Quốc Đại Việt”. Sông Hương gắn liền với chiến công Nguyễn Huệ; sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa thế kỉ 19…

Sông Hương đã chứng kiến cuộc Cách mạng tháng Tám với những chiến công rung chuyển. Và sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế đã oằn mình dưới sự tàn phá của Mĩ trong mùa xuân lịch sử Mậu Thân…

Viết về cuộc đấu tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, ngòi bút Hoàng Phủ

Ngọc Tường đã xoáy sâu, kể tội ác của đế quốc Mĩ khi chúng đang tâm hủy diệt văn hóa một vùng đất. Không cần những lời lẽ căm thù, không cần những ngôn từ phẫn nộ, nhà văn chỉ dẫn nguyên văn lời đánh giá của một người Mĩ về sức tàn phá ghê gớm của sự kiện mùa xuân 1968 mà sông Hương trở thành nhân chứng: “Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, vănp hóa, học thuật và chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc- lin,... Một số các di sản đó đã bị phá hủy lúc Thành Nội bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một bảo tàng hay một thư viện ở Mĩ. Sự phá hủy những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu khi một số công trình của nền văn minh Hi Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại”. Không gì thâm độc và đau đớn bằng sự tàn phá những di sản văn hóa của dân tộc. Sự nối kết đầy chất trí tuệ này làm cho những cứ liệu của tác giả càng có sự thuyết phục, tô đậm thêm nỗi đau mất mát tinh thần.

Có thể nói, qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ làm đẹp thêm thành phố yêu thương của mình, làm vẻ vang thêm truyền thống lịch sử và văn hóa Huế. Với Ai đã đặt tên cho dòng sông?, dòng Hương Giang trữ tình, thơ mộng một lần nữa lại làm mê đắm những người vốn đã yêu Huế, yêu sông Hương. Hiểu hơn về Huế, về sông Hương, về những trầm tích văn hóa nơi đây ta càng thêm cảm phục tài năng của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

CHƯƠNG 3

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG

CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

3.1. Ngôn ngữ giàu chất thơ

Nhắc đến kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc đặc biệt bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi ngôn ngữ trữ tình, giàu chất thơ của ông. Có thể nói, ngôn ngữ của ông rất đẹp, có khả năng mê hoặc. Sự tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện trong cách dùng từ, viết câu và sử dụng các biện pháp tu từ đặc sắc. Chất thơ ở đây là sự kết hợp của cả chất trữ tình và sự biến ảo của ngôn ngữ. Qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?, ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát lộ.

Khai mở tác phẩm, ta bắt gặp tầng ngôn từ – tầng đầu tiên để đi vào khám phá cấu trúc, ý nghĩa của văn bản. Và ở đây, chúng ta đã bất ngờ, ngạc nhiên trước hệ thống từ ngữ đầy chất thơ, chất họa trong từng trang viết của ông. Phải chăng tất cả là do khả năng bẩm sinh của một con người có tâm hồn nhạy cảm, yêu người và yêu đời thiết tha? Hay đó là quá trình rèn giũa, tôi luyện, sự trưởng thành của một ngòi bút và trái tim tinh tế, sâu sắc?

Những trang viết về Huế của ông luôn thấm đượm tình cảm nồng ấm và miên man những dòng suy tư, triết lí về cuộc đời. Đến với thế giới cỏ cây, thiên nhiên bao la, vang vọng bên ngoài kia, tác giả đều cảm hoài một nỗi niềm yêu thương, trân trọng, ngợi ca... Cảnh vật thiên nhiên được miêu tả qua ngôn ngữ trữ tình giàu chất thơ, đậm chất Huế ngoài cho người đọc thấy được thiên nhiên xứ Huế đẹp, thơ mộng mà cái tài cái tài nắm bắt thần thái cảnh vật của tác giả. Sông Hương – vẻ đẹp mặn mà, duyên dáng của xứ Huế càng khơi nguồn thi hứng của tác giả. Ngắm sông Hương, ông “cảm nhận cái âm hưởng

sâu thẳm của Huế... những vầng trăng thắm thiết”. Sông Hương là hình tượng đa dạng, muôn sắc màu: “là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn (...) có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, “như một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại”, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ , trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, “như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, “một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, “bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”… Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông? ta cảm nhận kho tàng từ vựng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật phong phú, vô tận và trữ tình. Ông đã sử dụng một hệ thống từ Hán Việt trang trọng để biểu hiện được những suy nghĩ, tình cảm của mình với dòng sông yêu thương và cũng nhờ vậy mà nó mới có thể khoe hết vẻ đẹp rực rỡ, bí ẩn của mình. Bên cạnh đó là những từ thuần Việt mộc mạc, giản dị song như nói đúng nỗi lòng của ông nên những câu văn đó dễ đem đến trong lòng người đọc sự thăng hoa cảm xúc.

Ngoài ra, để có được những câu văn hay đi vào lòng người thì Hoàng Phủ Ngọc tường đã sử dụng hệ thống tính từ, từ ngữ mang tính tượng hình cao như từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình: dồn dập như lặng lờ, lững lờ, lô xô, bồng bềnh, lập lòe, rầm rộ, chói lọi, ngập ngừng, sừng sũng, xúm xít,... để làm sống dậy thủy trình về với biển của sông Hương. Ngôn ngữ giàu chất trữ tình, chất thơ, rất hoa mĩ, trau chuốt, tinh luyện nhưng cảm giác như đó là sự gửi gắm của cả tấm lòng chân thành, gần gũi và nồng thắm biết bao. Ngôn ngữ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?, vì thế còn được gọi là ngôn ngữ cảm

xúc, tuân theo quy luật cảm xúc (...). Cũng bởi tuân theo quy luật cảm xúc mà câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được nhận xét là thường dài, nhiều mệnh đề, nhiều bổ ngữ: “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”, rồi “Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách với, những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa”,... Kiểu câu văn ấy được ví “như những lớp sóng ngôn từ xao động” để diễn đạt những lớp sóng hưng phấn cảm xúc...

Hãy nghe nhà văn diễn tả cảm giác của mình “Mùa thu tôi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay mái ra sông ăn trái hồng ngọt và thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan ra thành dư vang của một tiếng chim”. Chỉ có ăn một trái hồng thôi mà thấy đủ cả hương vị, thanh sắc của đất trời, huống hồ là khi đối diện với với một con sông của một miền đất mà mình yêu mến, tự hào và gắn bó. Dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về con sông thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để diễn tả cho thật riêng, thật sắc, thật tinh góc nhìn, điểm nhìn ấy: Cần đặt con sông trong không gian địa lí thì nó là “một bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào dưới đáy vực bí ẩn, dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đổ quyên rừng, dịu dàng và trí tuệ khi trở thành bà mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở, mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá, trầm mặc như triết lí, như cổ thi gữa đám quần sơn lô

xô, đền đài lăng tẩm và rừng thông u tịch , vô tư giữa những biền bãi xanh biếc, yên tâm kéo một nét thẳng khi nhìn thấy chiếc cầu của thành phố in ngầm trên nền trời…” Cần đặt con sông trong tổng thể những sắc màu văn hoá thì nó trở thành một “vang bóng trong thời gian hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều”, lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”, điệu chảy lặng lờ như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy. Cần đặt sông Hương trong dòng chảy lịch sử thì sông Hương lại là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh biếc ”, khi “tự biến đời mình thành một chiến công ”, khi lại trở về “làm một người con gái dịu dàng của đất nước ”. Đây không phải thứ chữ nghĩa mà ta quen gặp trong văn xuôi thông thường.Lối chữ nghĩa giàu hình ảnh và thấm đượm cảm xúc đó là kiểu chữ nghĩa thường chỉ thấy nhiều trong thi ca, nó khiến người đọc không chỉ tiếp nhận được những thông tin cần thiết mà còn có thêm hứng thú và nguồn mĩ cảm dồi dào.

Qua lớp ngôn từ trữ tình, tác giả xây dựng một thế giới hình tượng đa dạng, sinh động, lung linh sắc màu, dáng hình với khả năng tạo hình cao: trong rừng già, sông Hương sống động “như một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại”, nhưng khi về thành phố nó nhanh chóng “trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”... Ngôn ngữ trữ tình còn được thể hiện ở những vần thơ giàu cảm xúc, tư duy của chính tác giả hoặc của các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng từ cổ chí kim. Những câu thơ được Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa vào tác phẩm kí của mình với sự đan xen thích hợp, tạo hiệu quả thẩm mĩ. Những vần thơ rất sâu chảy vào tâm hồn của khách đa tình như men say của chén rượu đầu đông lưu luyến ấm áp mãi không nguôi. Sự kết hợp giữa tự sự của bút kí và chất trữ tình của thơ ca đã làm cho bút kí Ai đã đặt tên cho

dòng sông? nói riêng và các tác phẩm bút kí khác nói chung của ông tăng chất thơ, chất họa, lôi cuốn và hấp dẫn biết bao thế hệ người đọc.

Bằng tình yêu tha thiết, vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng nhà văn đã miêu tả cặn kẽ, tỉ mỉ hành trình tình yêu của Hương Giang, phô ra kiến thức muôn màu về địa lí, lịch sử, văn hóa xoay quanh dòng sông và mảnh đất cố đô. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phối hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ. Qua nghệ thuật nhân hóa, dòng sông vô tri, vô giác bỗng trở nên có sinh mệnh, có linh hồn, có tính cách, có tâm trạng. Khi mạnh mẽ, quyết liệt, khi dịu dàng đắm say, khi e lệ kín đáo, khi tình tứ lẳng lơ.

Nghệ thuật so sánh hết sức tự nhiên bất ngờ bộc lộ sự liên tưởng, tưởng tượng phóng túng, tinh tế, tài hoa của người nghệ sĩ. Đó là khi Hoàng Phủ Ngọc Tường ngầm so sánh sông Hương với người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Còn thành phố Huế là người tình mong đợi. Những con chữ, đoạn văn lấp lánh huyền thoại tạo chất thơ: “Lập lòa trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ...”, Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, “Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòn những rừng thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”…

Với những liên tưởng kì thú, diễm tình, tác giả ví sông Hương như một người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức. Những câu văn đẹp đầy màu sắc và ấn tượng. “Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như những thành quách”. “Dòng sông như tấm lụa, với những chiếc thuyền

xuôi ngược nhỏ bé vừa bằng con thoi, những ngon đồi này tạo nên nhiều mảng phản quang nhiều màu sắc”. “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”…

Bằng những con chữ biết nói, qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lưu giữ vẻ đẹp thiên nhiên và con người Huế, lưu giữ bản sắc Huế và đã góp cho kí Việt một tiếng nói riêng của một nhà văn rất Huế.

3.2. Giọng điệu trữ tình

Giọng điệu khác với âm thanh giọng nói, cũng khác với ngôn ngữ là vỏ ngữ âm vật chất của ngôn từ. Giọng điệu là ngữ điệu tâm hồn, là khẩu khí, là cá tính, là phong cách sáng tạo của mỗi nhà văn. Giọng điệu văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường là cốt cách tinh thần của người Huế, là giọng điệu trữ tình, giọng điệu sử thi của vùng địa văn hóa cố đô.

Trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?, giọng điệu trữ tình được xây dựng trên cơ sở của cái “tôi” viết kí. Nó là những suy nghĩ, cảm xúc được nhà văn cụ thể hóa thành những lời tâm sự, giãi bày.

Ở bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, chất trữ tình thấm đẫm trong từng dòng văn, hiện diện ở giọng kể chuyện chậm rãi như đang tâm tình của tác giả khi ông ca ngợi cảnh xứ Huế và thiên nhiên nơi đây: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến. Hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ, giữa bong cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

Đặc biệt khi viết về lịch sử, văn hóa, thiên nhiên Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành tất cả tâm hồn thơ mộng của mình để trang văn trở nên ngọt ngào, da diết: “Mùa thu, tôi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng quay mặt ra sông, ăn những trái hồng ngọt... Chính trong những giờ phút

bồng bềnh giữa cõi thực và cõi thơ ấy, tôi đã cảm nhận ra cái âm hưởng sâu thẳm của Huế”…

Giọng trữ tình khiến cho các vấn đề được diễn tả trên các trang kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ kỉ niệm tuổi thơ đến chân dung các nhân vật… đều trở nên ngọt ngào thi vị.Có dòng thi ca về sông Hương và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, dòng sông trắng – lá cây xanh trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên như kiếm dựng trời xanh trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài cổ với bong chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.

Tất cả đều xuất phát từ tài năng và trái tim nặng trĩu những yêu thương dành cho đất nước và con người Việt Nam của tác giả. Và giọng điệu đó đã xuyên suốt hành trình sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường góp phần thể hiện một phong cách viết kí trữ tình đầy sáng tạo trong dòng kí Việt Nam đương đại.

Kết cấu tác phẩm được dẫn dắt theo mạch cảm xúc của nhà văn với câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng sông? được lặp lại nhiều lần ở nhan đề, ở phần giữa, và ở đoạn cuối văn bản, là yếu tố cốt lõi để dẫn dắt mạch văn; đưa nhà văn làm một cuộc hành trình lịch sử tìm về cội nguồn của dòng sông và cảm nhận, miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn huyền thoại – văn hóa – lịch sử. Câu hỏi ở phần cuối của bài kí bộc lộ sâu sắc những suy nghĩ, trầm tư của nhà văn về cái đẹp của sông Hương ở chiều sâu của nó và khiến cho giọng điệu tác giả trở nên da diết.

Dòng sông Hương vốn tiềm ẩn bao vẻ đẹp quyến rũ, nhưng một điều

chắc chắn là ta không thể khám phá nét đẹp, nét quyến rũ của dòng sông mà không có ngòi bút tài hoa uyên bác mê đắm vẻ đẹp thiên nhiên xứ sở của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bằng tình yêu tha thiết, vốn hiểu biết phong phú sâu rộng nhà văn đã tường thuật miêu tả cặn kẽ, tỉ mỉ hành trình tình yêu của Hương Giang, phô ra kiến thức muôn màu về địa lí, lịch sử, văn hóa xoay quanh dòng sông và mảnh đất cố đô này.

Mỗi đoạn văn là một chắt lọc tinh túy về hành trình, về dáng vẻ, về vẻ đẹp của sông Hương, diễn tả tình yêu say đắm của tác giả với Hương Giang diễm tình và đầy chất sử thi. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện sự mê đắm ấy với sông Hương bằng một giọng điệu vừa mạnh mẽ vừa quyến rũ: “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.

Nhưng khi miêu tả dòng chảy của sông Hương khi về đến đồng bằng, tác giả như hạ giọng, chọn một sắc điệu phù hợp, vừa đằm thắm vừa tha thiết: “Sông Hương khi về đồng bằng đã thay đổi tính cách, sông như đã chế ngự bản năng ở người con gái để mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ của vùng văn hóa xứ sở”.

Giọng văn đầy biến hóa, khi tha thiết, ngân vang, khi bâng khuâng xao xuyến, khi dịu dàng, đằm thắm trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? đã khiến những trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường càng thêm cuốn hút. Say mê vẻ đẹp của Hương Giang bao nhiêu, ta càng yêu ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường bấy nhiêu.

Có thể thấy, với những cảm xúc sâu sắc cộng với những kiến thức phong phú, trí tưởng tượng và trải nghiệm thực tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực sự mê hoặc được người đọc. Tác giả hoàn toàn chủ động trong việc dẫn dắt người đọc đi theo nhà văn để hào hứng thưởng thức vẻ đẹp của dòng sông Hương. Qua ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tương, Hương Giang không phải chỉ là con sông địa lí vô tri nữa mà đã trở thành một con người cụ thể - một người con gái có nhan sắc, có tâm hồn, có sức sống và cũng đầy sức mạnh để đi hết cuộc hành trình, sống trọn vẹn đời sống và khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh và lý tưởng của mình.

Thành công đó của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một minh chứng thuyết phục nhất khẳng định tài năng nghệ thuật của ông, khẳng định sự tài hoa của tác giả trong việc chỉ huy đội quân ngôn ngữ. Cùng với sự tài tình trong cách sử dụng ngôn ngữ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện năng lực sáng tạo riêng bằng một giọng điệu nghệ thuật rất đặc trưng, không dễ lẫn.

KẾT LUẬN

Văn học chính là thành tố quan trọng của văn hóa. Văn học vừa tái hiện, vừa lưu giữ, vừa góp phần sáng tạo nên giá trị văn hóa mới. Vì vậy khi tìm hiểu, nghiên cứu văn học không thể tách rời các biểu hiện văn hóa, sự ảnh hưởng chi phối và cả những tác động hai chiều giữa văn hóa và văn học.

Tìm hiểu bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa, khóa luận đã góp phần thiết thực nghiên cứu, khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và văn học. Trên tinh thần đó, khóa luận đã khai thác những dấu ấn Huế từ địa – văn hóa, kì vọng thấu hiểu cả những trầm tích mà “dòng sông hình như không muốn bộc lộ”.

Cũng qua nghiên cứu đề tài này, tác giả khóa luận đã góp phần khẳng định tài năng nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường - một gương mặt xuất sắc của nền văn học Việt Nam đương đại.

Những đóng góp của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đặc biệt là những đóng góp ở thể bút kí đã làm giàu có cho thể loại kí Việt Nam, làm thay đổi cách quan niệm về thể loại kí. Bằng một ngôn ngữ văn xuôi đầy chất thơ, một giọng điệu thấm đẫm chất trữ tình, bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?của Hoàng Phủ Ngọc Tường giống như một bài thơ đẹp và sẽ còn làm mê đắm nhiều thế hệ độc giả, sẽ tiếp tục là đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học.

Khóa luận chỉ mới bắt đầu đi vào tìm hiểu, nghiên cứu bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc độ nhìn văn hóa, vì vậy sẽ còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ và cần thiết có sự kiến giải sâu sắc hơn đúng tầm của thiên bút kí đẹp này.

TƯ LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1992), 150 thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.

2. Thùy Dung, Huế qua miền di sản, Nhà xuất bản Thuận Hóa.

3. Bùi Minh Đức (2007), Hình tượng sông Hương trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Dạy và học ngày nay.

4. Bùi Minh Đức (2010), “Dấu tích văn hóa Huế”, Nhà xuất bản Thuận Hóa.

5. Lê Thị Hường (2008), Chuyên đề dạy – học Ngữ văn 12, Nhà xuất bản Giáo dục

6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

7. Hồ Chí Minh Toàn tập, (1995), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội

8. Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên (1992), Tác giả văn học Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

9. Trần Thùy Mai (2002), Kí văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí

Sông Hương, số 161.

10. Đặng Nhật Minh (2002), “Hoàng Phủ Ngọc Tường – một tâm hồn Huế”, Tạp chí Sông Hương, số 163, http://www.tapchisonghuong.com.vn/tap- chi/c102/n705/Hoang-Phu-Ngoc-Tuong-mot-tam-hon-Hue.html.

11. Phan Trọng Luận (2012), Ngữ văn 12, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục.

12. Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng

13. Phạm Phú Phương (1986), Ai đã đặt tên cho dòng sông – nghĩ về chặng đường sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 20.

14. Trần Đình Sử (1987), “Ai đã đặt tên cho dòng sông – Bút kí sử thi của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Văn nghệ, số 7.

15. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.

16. Huỳnh Ngọc Thu (), Văn hóa là gì?, http://nhanhoc.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=e1f687b2-14d1-417b-b0cf- 8956e0aa5632.

17. Trần Thức tuyển chọn và giới thiệu (2002), Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, tập 2,Nhà xuất bản Thuận Hóa.

18. Trần Quốc Vượng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/04/2022