Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa - 2

Một nền văn hóa lớn sẽ là cơ sở, là nền móng để văn học phát triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu.

Qua văn học sẽ giúp bạn đọc có thêm những hiểu biết về văn hóa, có thể là một nét đẹp văn hóa hay một nền văn hóa đã bị lãng quên. Ở mỗi một nền văn hóa khi đi vào văn học lại có những nét đặc sắc khác nhau. Nếu như vùng đất phủ đầy băng tuyết với nghệ thuật gejsha của Kawabata được hiện lên qua Xứ Tuyết, đó là một vùng đất với vẻ đẹp đến nao lòng và nghệ thuật gejsha là một đặc trưng văn hóa của xứ sở Phù Tang. Thì trong văn học hiện đại Việt Nam, người đọc sẽ được biết đến với những nét đặc sắc văn hóa của các vùng miền thông qua những món ăn hay thậm chí nếp cảm nếp nghĩ của những con người nơi đây. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho ta thấy dược nếp nghĩ, nếp cảm của con người vùng Trung Bộ; Nguyễn Tuân lại đưa ta về với vùng núi phía Bắc với những con người mạnh mẽ và phi thường.

Bên cạnh việc giúp bạn đọc có thêm hiểu biết về những nền văn hóa khác nhau thì văn học còn giúp bạn đọc vượt thời gian và không gian, để thấy và hiểu được cả một thời kì văn hóa, xã hội của nhân loại. Như hai bản trường ca Illiade và Odyssee của Homere đã đưa bạn đọc tới những chiến công oanh liệt và hiển hách trong cuộc chiến thành Troie, bên cạnh đó là bề dày lịch sử và văn hóa của cả một thời kì hoàng kim. Con người luôn luôn có khao khát chiến đấu và chiến thắng để bảo vệ đất nước của mình, họ là những con người trí tuệ và cống hiến hết mình cho quốc gia và cho dân tộc.

Xét đến cùng, sáng tác văn học chính là một hành vi văn hóa cao đẹp của người nghệ sĩ. Văn hóa tác động sâu sắc tới văn học thông qua sự cảm nhận, thẩm thấu giá trị văn hóa của người nghệ sĩ.

Ngược lại văn học cũng tác động ngược trở lại đối với nền văn hóa. Văn học có vai trò tích lũy những giá trị tinh hoa nhất của một nền văn hóa để từ đó làm giàu đẹp thêm. Những bài vè, ca dao hay những câu thành ngữ tục ngữ đều

là những kinh nghiệm của ông cha ta đúc kết và để lại cho thế hệ mai sau và đây chính là những giá trị văn hóa truyền thống vô giá cho muôn đời sau.

Văn học đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong món ăn tinh thần trong đời sống của con người, những câu nói quen thuộc những hình tượng văn học đặc biệt đã đi vào đời sống xã hội và nó trở nên gần gũi hơn.

1.2. Hoàng Phủ Ngọc Tường và quá trình sáng tác

1.2.1. Vài nét về tác giả

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế. Ông là người xã Triệu Long, huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị, hiện ông đang sinh sống và làm việc tại Huế. Ông đã học và tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Sài Gòn khóa 1, ban Việt Hán năm1960, cử nhân triết học Đại học Văn Khoa Huế, là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 27 trang tài liệu này.

Ông đã từng dạy học, rồi tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ. Ông viết văn, viết báo từ khi tuổi đời còn rất trẻ.

Ông từng là Chủ tịch Hội văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương, Cửa Việt. Ông được vinh dự nhận giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1980 với tác phẩm Rất nhiều ánh lửa.

Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa - 2

Trong số không nhiều nhà văn đã cống hiến gần như toàn bộ lao động nghệ thuật của mình cho thế kỉ hiện nay, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây bút đặc sắc, ông có những đóng góp đáng kể cho nền văn học Việt Nam đương đại.

1.2.2. Quá trình sáng tác

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác giả có nhiều đóng góp trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn có phong cách độc đáo, tài hoa. Đến với tác phẩm Hoàng Phủ Ngọc Tường người đọc sẽ tiếp xúc với một thế giới tâm hồn sâu sắc tinh tế, đồng thời được cung cấp một lượng thông tin phong phú, thú vị về nhiều lĩnh vực.

Sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường gồm các thể loại như: bút kí, thơ, nhàn đàm. Ở thể loại bút kí có thể kể đến những tác phẩm sau: Ngôi sao trên đỉnh Phù Vân Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984), Bản di chúc của cỏ lau (truyện kí 1991), Hoa trái quanh tôi, Huế di chúc và con người (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999), Trong mắt tôi (2001), Rượu hồng đào chưa nhắm đã say (2001), Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của hoàng tử bé (2005), Miền cỏ thơm (2007)…

Ở thể loại nhàn đàm với: Nhàn đàm (1997), Người ham chơi (1998) và

Miền gái đẹp (2001).

Với thơ gồm có: Những dấu chân qua thành phố (1976) và Người hái phù dung (1995).

Toàn bộ tinh hoa và năng lực của Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như đều dành cho thể kí. Nhà văn đã thành danh và đóng góp nhiều cho văn học sau 1975 là ở thể loại này. Theo đánh giá của Nguyên Ngọc: “Anh là một trong những nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay...”.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đi nhiều. Ông đã rong ruổi khắp mọi miền đất nước trong những năm chiến tranh, những năm tháng hòa bình. Bằng khả năng quan sát tinh tường, ông đã kịp thời ghi lại những hình ảnh, sự kiện, con người của từng vùng đất. Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường đa dạng về đề tài: viết về chiến tranh, những danh thắng ở nước ngoài, về những vùng miền đất nước... Từ Lạng Sơn đến Cà Mau, từ những miền đất xa xôi hẻo lánh đến những thành phố đông đúc hay vùng châu thổ sông Hồng, mảnh đất nào cũng từng in dấu chân Hoàng Phủ Ngọc Tường và hiện hình sống động trong từng trang kí của nhà văn.

Phần lớn kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thuộc dạng kí – văn hóa. Ở dạng này, yếu tố văn hóa – lịch sử đậm đặc. Bằng thể kí nhà văn đã chuyển tải được nhiều vấn đề thuộc về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của nhiều vùng quê

hương đất nước.

Kí viết về Huế chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Huế trở thành một phần trong đời sống tinh thần của nhà văn. Những mẩu kí viết về Huế thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của Hoàng Phủ Ngọc Tường với mảnh đất giàu trầm tích văn hóa.

Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn tự nhận mình là “người ham chơi” vì theo ông “ham chơi là gốc văn hóa của người Việt”. Cũng chính bởi quan niệm này mà ông đã đem đến cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm hay và đặc biệt hấp dẫn. Ông khá thành công ở thể loại kí mặc dù kí không phải là thể loại đầu tiên tác giả viết khi mới vào nghề mà thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết mới là thể loại đầu tay của tác giả. Năm 1959, truyện ngắn Chuyện một người đi qua sa mạc và tiểu thuyết Cửa rừng ra đời sau đó ít năm đã báo hiệu sự có mặt của Hoàng Phủ Ngọc Tường trên văn đàn nhưng không mấy thành công.

Phải đến năm 1971 với sự ra đời của bút kí Những ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu thì tên tuổi của ông mới có nhiều người biết tới và tác phẩm đã được nhà văn coi là tác phẩm “khai sinh” cho sự nghiệp viết văn của mình. Nhà văn từng tâm sự “Bước ra khỏi cuộc chiến tranh tôi nghiệm ra một điều là tôi cần phải nói về những gì tôi đã trải nghiệm. Tiểu thuyết và truyện ngắn có vẻ như không giúp được tôi làm điều này. Thế là tôi chọn kí, thể loại loại gần nhất với hiện thực đời sống. Với thể kí tôi có thể nói tùy thích những gì đang diễn ra trong tâm hồn tôi, những trải nghiệm đẹp và cả những đau khổ nữa”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kí làm phương tiện để bộc lộ tài năng cũng như những trải lòng của mình. Là một người con của Huế và giường như ông dành trọn tình yêu của mình với Huế vậy. Bên cạnh tình yêu Huế là tình yêu lớn hơn ông dành cho đất nước Việt Nam xinh đẹp này, ta có thể bắt gặp mọi miền của Tổ quốc trong những trang viết chan chứa tình yêu quê hương,

đất nước và con người của tác giả.

1.2.3. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Sông Hương đã trở thành đối tượng thẩm mĩ của thơ ca nhạc họa, nhưng dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông thi ca này lại được soi chiếu từ nhiều phía. Đến với Ai đã đặt tên cho dòng sông? người đọc có dịp hiểu rõ thêm về cội nguồn sông Hương, thiên nhiên, lịch sử, văn hóa và con người Huế.

Nội dung kí viết về sông Hương, nhưng ý nghĩa của nó không dừng lại ở một dòng sông, mà sâu rộng hơn là lịch sử - văn hóa một vùng cố đô. Đã có những dòng sông quê hương thành thơ, thành nhạc, nhưng ít có dòng sông nào mang chứa trong mạch ngầm của nó những lớp trầm tích văn hóa như sông Hương.

Ngay từ đầu Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nét độc đáo của sông Hương và sự am tường của nhà văn đã bộc lộ rõ ở lời khẳng định này. Đúng vậy, hiếm có dòng sông lớn nước láng giềng và nối dài đến biển khơi. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng của thế giới, nơi gót chân phiêu lãng của ông đã đi qua. Từ đó nhà văn đã phóng chiếu cái nhìn đầy cảm xúc để cảm nhận và miêu tả dòng sông từ nhiều góc nhìn.

Hành trình của dòng sông qua cách miêu tả tài hoa, độc đáo của nhà văn: Với câu hỏi gợi tìm Ai đã đặt tên cho dòng sông?, bằng những bước chân rong ruổi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội nguồn và dòng chảy của sông Hương. Cứ ngỡ sông Hương hiền hòa chảy giữa lòng kinh thành Huế, nhưng không, sông Hương đã vượt qua một cuộc hành trình với sự chuyển dòng liên tục.

Sông Hương với thiên nhiên Huế: Nhìn từ góc nhìn địa lí, nếu tách

riêng sông Hương ra khỏi thành phố Huế, dòng sông chỉ còn là dòng nước vô chi chảy giữa đôi bờ. Bằng sự hiểu biết tường tận vùng đất kinh kì cũ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm cuộc hành trình ngược về cội nguồn của dòng sông và gắn kết nó với thiên nhiên, cảnh sắc Huế. Lần theo dòng chảy của sông Hương, ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp mượt mà.

Sông Hương và con người Huế: Thiên nhiên và dòng sông Hương gắn bó, gần gũi với con người. Qua điệu chảy của dòng sông nhà văn thấy đươc tính cách con người xứ Huế: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sông Hương nhà văn thấy cách trang phục trang nhã, dịu dàng của các cô gái xứ Huế ngày xưa – “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng”.

Vẻ đẹp của sông Hương từ nhiều góc nhìn: Ở góc nhìn lịch sử, sông Hương không còn là cô gái “Di – gan man dại”, không còn là “người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa”, mà trở thành nhân chứng của những biến thiên lịch sử. Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng đã từng giữ những nhiệm vụ lịch sử quang vinh. Sông Hương từ góc nhìn văn hóa trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong bản thân nó nền văn hóa phi vật chất.

Trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện cái tôi say mê kiếm tìm cái đẹp và luôn gắn bó với thiên nhiên, cái tôi yêu quê hương đất nước và luôn hướng về cội nguồn và một cái tôi uyên bác, tài hoa. Phải đi nhiều, phải quan sát kĩ, và phải gắn bó với thiên nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường mới thể hiện hết mình sự tài hoa và tấm lòng yêu quê hương nồng cháy qua hình ảnh dòng sông Hương chảy giữa vùng đất cố đô.

Bút kí Ai đã dặt tên cho dòng sông? bộc lộ một khả năng quan sát tinh tường, một trí tưởng tượng phong phú. Sông Hương tự nó đẹp với sắc thái đa

dạng, nhưng bằng sự mẫn cảm của một trái tim thi sĩ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã quan sát và miêu tả những biến thái của thiên nhiên tinh tế. Kết hợp giữa biện pháp nhân hóa với những liên tưởng bất ngờ giúp nhà văn thổi hồn vào dòng sông, biến sông Hương thành một sinh thể có tính cách, có nỗi niềm. Dòng sông Hương chảy tràn trên những trang kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường với nhiều dáng vẻ, biến hóa linh hoạt.

Qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?, ta nhận thấy một ngòi bút kí giàu chất thơ nó được toát ra từ thiên nhiên cảnh vật, từ tâm hồn con người và từ những huyền thoại mà nhà văn sử dụng đúng chỗ. Chất trí tuệ và chất thơ kết hợp hài hòa trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo nên phong cách đặc sắc của nhà văn. Tác phẩm thu hút người đọc ở hai yếu tố này.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? có nhiều sự phát hiện về lịch sử và văn hóa xứ Huế. Huế từ rất lâu đã chiếm chỗ sâu bền trong tâm hồn người Việt, là nỗi ước mong của trí thức bao đời... Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bài thơ bằng văn xuôi về “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, một người mẹ không thể hiểu được chỉ bằng một cái nhìn bề ngoài hời hợt. Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn ra biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế, bộc lộ mọi cung bậc của nó, vừa mãnh liệt vừa lắng sâu, vừa trữ tình vừa thiết tha, vừa bình thản trí tuệ.

Với bút kí để đời dành cho sông Hương: Ai đã đặt tên cho dòng sông?... nhiều bạn văn của anh vẫn bảo: Sẽ khó có ai viết được nữa bởi anh đã khai thác đến tận cùng nguồn ngọn, chi li từng cọng rêu, giọt nước mà thâm hậu và trải nghiệm đến tận cùng.

CHƯƠNG 2

DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?

CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

2.1. Địa - văn hóa Huế qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Nói về văn hóa, không thể không quan tâm đến khía cạnh địa – văn hóa, trong đó, con người và thiên nhiên, văn hóa và địa lý tương tác qua lại với nhau, tạo nên những tính cách, ứng xử văn hóa khác nhau ...

Nói về địa – văn hóa, là nhằm bàn đến những điểm đại đồng và tiểu dị được/ bị chi phối bởi những yếu tố địa lý, làm nên tính nhất quán và phong phú của văn hóa. Phủ định tính vùng miền trong văn hóa là phủ định tính phong phú, miệt thị tính vùng miền là gây chia rẽ... Có ý kiến cho rằngTrong so sánh về tính vùng miền, có ý kiến cho rằng nên dùng phép “so sánh hơn” đầy vi tế, chứ không nên dùng phép “so sánh nhất” mang tính cực đoan. Những tính cách chung của cả nhân loại, hay của một dân tộc, sẽ trội lên hay chìm xuống tùy theo hoàn cảnh địa lý. Một tính cách có ở vùng miền này, hay ở dân tộc này, chắc chắn sẽ có ở vùng miền khác, hay ở dân tộc khác, chỉ là trội hay chìm mà thôi... Phân tích về tính vùng miền, là để so sánh, gạn lọc những cái tốt thì giữ lại, phát huy, những cái xấu thì bỏ đi, hạn chế ..., nhằm khiến cho cả nhân loại, hay một dân tộc, ngày càng tốt hơn, văn minh hơn... !

Nói chung, nơi nào có thiên nhiên khắc nghiệt, khí hậu thất thường, địa thế hùng hiểm, sông sâu nước xiết, lắm thác nhiều ghềnh, núi non đột khởi, chớn chở chập chùng... thì con người thường có tính cách sâu sắc, quyết liệt, cương mãnh..., thậm chí bạo liệt, cực đoan...; nơi nào có thiên nhiên ưu đãi, khí hậu thuận hòa, địa thế mềm mại, sông lặng núi bình, đồng bằng trải rộng... thì con người thường có tính cách khoáng đạt, nhu nhuyễn, hiền hòa..., thậm chí dễ dãi, hời hợt…

Trung Bộ chỉ có người xứ Huế có lối sống khá kiểu cách, do là đất

"Thần Kinh", "Đế Đô", còn đa phần vẫn do khí hậu nắng hạn mưa lụt, canh tác khó khăn nên cũng có tính cách cần kiệm, lại do thời kỳ gian lao mở cõi nên tình tương thân tương ái cũng khá đậm đà, nhưng cũng rất bảo thủ ...

Trong tình cảm của nhiều người, nói đến Huế là nghĩ ngay đến sông Hương. Sông Hương đã trở thành biểu tượng của Huế, là linh hồn của Huế trầm mặc, cao sang, trữ tình.

Sông Hương có hai nguồn chính đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn. Dòng chính của Tả Trạch dài khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, ven khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy theo hướng tây bắc với 55 thác nước hùng vĩ, qua thị trấn Nam Đông rồi sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng (khoảng 3 km về phía bắc khu vực lăng Minh Mạng). Hữu Trạch dài khoảng 60 km là nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua 14 thác và vượt qua Phà Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng, nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương.

Từ Bằng Lãng đến cửa sông Hương, sông Hương dài 33 km và chảy rất chậm. Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trâm, sắc nước sông Hương xanh hơn – đây là địa điểm Điện Hòn Chén, tại đây có một vực rất sâu.

Sông Hương được cho là rất đẹp khi chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi nó chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm của hệ thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua các làng mạc như Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh. Sông Hương ngoài vẻ đẹp tự nhiên được tô điểm bằng các công trình kiến trúc hai bên bờ sông gồm thành quách, thị tứ, vườn tược, chùa chiền, tháp và đền đài... khiến con sông mang theo nhiều chất thơ và tính nhạc. Chẳng biết từ bao giờ, sông Hương đã đi vào thơ ca, nhạc, họa, là nguồn cảm hứng sáng tác cho bao thế hệ văn nghệ sĩ.

Với câu hỏi gợi tìm Ai đã đặt tên cho dòng sông?, bằng những bước

chân rong ruổi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội nguồn và dòng chảy của sông Hương. Qua ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được phác vẽ ở cự li gần và bằng nét bút chân thực nhất. Sông Hương hiền hòa chảy giữa lòng kinh thành Huế đã vượt qua cuộc hành trình với sự chuyển dòng liên tục và mang chở cả những thăng trầm văn hóa xứ sở.

Ở thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ; chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn...” ; sông Hương “phóng khoáng và man dại”, như một con người “bản lĩnh gan dạ”...

Ra khỏi đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, sông Hương giấu kín cuộc hành trình gian truân giữa lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Cách viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật gợi cảm, giúp người đọc hiểu thấu đáo hơn vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ của sông Hương giữa rừng già còn ít người biết đến. Biện pháp nhân hóa được nhà văn sử dụng như một phép tu từ chủ đạo và với một so sánh độc đáo, sông Hương từ một cô gái Di – gan thành người đẹp được đánh thức sau giấc ngủ nhiều thế kỉ.

Khi ra khỏi vùng rừng núi, sông Hương trở nên dịu dàng, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “vẽ một hình cung thật tròn” xuôi dần về Huế. “Dòng sông mềm như tấm lụa”, êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, chảy qua những lăng tầm đồ sộ, chảy qua chùa Thiên Mụ và “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Ở chặng đường này, sông Hương trở thành “ người mẹ phù sa” mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.

Giữa lòng thành phố Huế, dòng sông trở nên tĩnh lặng, trôi thật chậm, in bóng cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp trông xa nhỏ nhắn như “những vành trăng non”. Cách liên tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật gợi cảm khiến cho sông Hương như càng đẹp hơn bội phần. Cách dùng từ tượng hình khiến hình ảnh sông Hương hiện ra rõ nét, sống động: “Sông Hương uốn một

cánh cung rất nhẹ”.

Xuôi về Cồn Hến “Quanh năm mơ màng trong sương khói”, hòa với màu xanh của những khu vườn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng khiến ta không khỏi liên tưởng đến “dòng sông trăng” và sương khói trong thơ Hàn Mặc Tử. Và thật bất ngờ, trước khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương “đột ngột rẽ dòng... để gặp lại thành phố lần cuối”.

Ở khúc quanh đột ngột này, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa dáng hình của dòng sông. Nhà văn cho rằng : “... Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Liên tưởng xa hơn, nhà văn ví sự dùng dằng của sông Hương như nàng Kiều “chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi ra biển cả”. Biện pháp nhân hóa sử dụng khéo léo đã giúp tác giả thổi hồn vào dòng sông, và hơn thế nữa là một phương thức để nhà văn kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và xứ Huế ngày nay.

Bằng sự hiểu biết tường tận vùng đất kinh kì cũ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm cuộc hành trình ngược về cội nguồn của dòng sông và gắn kết nó với thiên nhiên, cảnh sắc Huế. Lần theo dòng chảy của sông Hương, ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp mượt mà: Thiên nhiên được nhà văn tái hiện với vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian. Sông Hương phản quang vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế với “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Gắn với dòng sông, những địa danh quen thuộc của thành phố Huế như Hòn Chén, Nguyệt Biểu, Tuần, Vọng Cảnh, Thiên Thai,... dường như sông động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”... Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho cảnh sắc thiên nhiên Huế và ngược lại dòng sông cũng hun đúc mọi âm vang của sắc trời, văn hóa vùng đất cố đô. Những bãi Nguyệt Biều, chân đồi Thiên Mụ, chân núi Ngọc Trản, Vọng Cảnh, điện Hòn Chén...

không còn là những lớp vỏ ngôn từ mà như có chiều sâu tâm linh.

Sông Hương hòa nhập với phần văn hóa vật thể cố đô (từ những “quần sơn lô xô), những đền đài lăng tẩm mang “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa” đến những rừng thông u tịch) để làm nên một tổng thể xứ Huế sơn thủy hữu tình như lời ca dao Huế : “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”.

Thiên nhiên và dòng sông Hương luôn gắn bó, gần gũi với con người. Qua điệu chảy của dòng sông nhà văn thấy được tính cách con người xứ Huế : mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sông Hương nhà văn thấy cách trang phục trang nhã, dịu dàng của cô gái xứ Huế xưa “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng”.

Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về Huế với nguồn cảm hứng bất tận dành chi đất và con người nơi đây. Trong mảng đề tài viết về những mảnh đất khác thì Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn luôn nhắc tới Huế như một tình yêu sâu lắng và kín đáo. Chất tài hoa trong phong cách nghệ thuật cùng với tấm lòng sâu nặng với Huế đã mang đến cho những trang kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường sự ỗi cuốn, thu hút và đặc biệt đã đánh thức trong lòng độc giả những rung động yêu thương. Qua đó độc giả có thể khám phá được những nét đẹp văn hóa truyền thống từ ngàn đời nay của người dân xứ Huế.

Sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường ví như con người xứ Huế vậy, bởi lẽ chính dòng sông ấy đã chứng kiến bao thăng trầm và biến cố của thành phố từ thời các vua Hùng cho đến hiện tại dòng sông ấy vẫn luôn song hành cùng sự phát triển không ngừng của thành phố. Dòng sông không lặp lại mình, cũng giống như nơi khởi nguồn cho những sáng tác bất tận của các nghệ nhân, nghệ sĩ khi đến với vùng đất này. Con người xứ Huế luôn luôn được chính dòng sông này bảo vệ, bồi đắp phù sa với những vùng Châu Hóa

rộng mênh mông với lượng phù sa bồi đắp hàng năm lớn, và ngay cả điệu chảy lững lờ của dòng sông cũng mang lại cho Huế một nét đặc sắc không nơi nào có được.

Sông Hương được bao bọc bởi những vùng đất phù sa màu mỡ và cả những khu nhà vườn mang đậm chất Huế, tất cả đều mang lại cho dòng Hương Giang một vẻ đẹp mà hiếm có dòng sông nào có được. Những bóng cây đại ngàn, hay những cánh rừng già đã hun đúc cho dòng Hương Giang một sức mạnh to lớn, “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác... dịu dàng và đắm say giữa những rặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Một góc trời đều là cây, những đám cây hay cả một cánh rừng thì tất cả đều là điểm tựa quan trọng của dòng sông Hương, chính bởi sự xuất hiện của những cánh rừng mà dòng sông như được tiếp thêm sức mạnh để có thể nhanh chóng tìm về với biển nơi nó được sinh ra, để về được với nơi bắt đầu là cả một cuộc hành trình dài đầy khó khăn và vất vả gian truân nhường nào. Với sự hun đúc của rừng già và bao bọc bởi những bóng cây đại ngàn dòng Hương Giang đã có một cuộc hành trình đầy bí ẩn và vấn vương chút gì đó lưu luyến ở mỗi nơi mà nó đi qua, vẻ đẹp mỗi vùng đất với đầy hoa thơm và cỏ dại, hay vẻ phù sa màu mỡ của những bãi bồi,... Tất cả đều mang lại cho bạn đọc một cảm nhận đặc biệt, không phải ai cũng cảm được cái mà tác giả muốn nói tới nhưng trong sâu thẳm mỗi một tâm hồn lại có những cách cảm nhận hoàn toàn khác nhau. Thiên nhiên gắn liền với dòng sông đặc biệt là vậy, nét đẹp ấy sẽ mãi in sâu trong tiềm thức của mỗi một con người khi đi qua dòng sông này. Tôi cũng đã từng được đến nơi đây, nơi mà con sông chảy qua, không phải ở nơi rừng núi hùng vĩ mà lại là nơi thành phố Huế mơ màng, khi dòng Hương Giang chảy qua thành phố nó không còn dữ dội cuộn xoáy ghềnh thác nữa mà nó bỗng dịu dàng như chính nơi mà nó đi

qua vậy. Thành phố Huế hay dòng Hương Giang, tất cả đều dịu dàng như chính cái tên của nó vậy, khi tới nơi đây tôi có một cảm giác thật lạ, không có những tiếng ồn chói tay mà thay vào đó là những âm thanh dịu nhẹ không quá ồn ào như Hà Nội mà tôi vẫn thường sống, không gian ấy khiến tôi như muốn ở mãi không đi, cũng giống như dòng chảy Hương Giang vậy. Nó chảy chậm và hình như cũng không muốn đi, sự lưu luyến ấy không phải do yếu tố nào chi phối mà đó là do chính dòng chảy của dòng sông đặc biệt vậy đấy.Những nơi mà dòng Hương Giang đi qua đều để lại cho chính dòng sông những kỉ niệm khó quên, khi qua những nhánh rừng, qua những hòn đảo nhỏ, hay những thành phố náo nhiệt thì dòng Hương Giang vẫn giữ cho mình một nét riêng độc đáo. Không quá nhanh cũng không quá chậm bởi ở mỗi nơi nó đi qua đều in dấu một nét đẹp, rừng già với vẻ đẹp hùng vĩ và hoang sơ, những bãi bồi hay những hòn đảo, nơi chất chứa vẻ đẹp màu mỡ và ngay cả những thành phố khoác lên mình sự náo nhiệt nhưng vẫn giữ được vẻ dịu dàng vốn có. Tất thảy những chi tiết ấy đều làm nên cho sông Hương một vẻ đẹp tươi mới, vẻ đẹp ấy chỉ có thể là của sông Hương mà thôi.

Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong bản thân nó nền văn hóa phi vật chất. Từ âm thanh của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga rền mặt nước, tiếng mái chèo khuya nước giữa đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn đò...) đã hình thành những điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và ngược lại trên sông nước mênh mang những câu hò xứ Huế vút lên, luyến láy ngân rền, bồi hồi xao xuyến những điệu hò mang vẻ đẹp của người xứ Huế: “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ...”. Bằng những liên tưởng thú vị, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví sông Hương như “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Và rất tự nhiên nhà văn gắn kết sông Hương với nền âm nhạc cổ điển Huế : “Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước con

sông này, một trong khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ dòng sông “mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi” những điệu hò vút lên, khiến nhà văn liên tưởng đến tiếng đàn của bậc tài nữ Thúy Kiều. Viết về sông Hương nhiều lần tác giả đã liên tưởng đến Truyện Kiều của Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc đã có thời gian sống ở Huế, những trang Kiều ra đời từ mảnh đất truyền thống nhã nhạc cung đình. Trong trí tưởng tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Du đã có những đêm trăng xuôi thuyền trên sông Hương, ngắm “phiến trăng sầu” treo lơ lửng giữa bầu trời trên sông nước êm đềm. Giữa dập dềnh trăng nước, thi nhân lắng nghe âm thanh của dòng sông, gửi hồn vào những điệu nhạc dìu dặt từ khoang thuyền, để rồi âm hưởng của dòng nhạc cổ điển cũng như những điệu hò dân gian đã ít nhiều để lại dấu vết trong Truyện Kiều chăng? Phải chăng những câu thơ tả tiếng đàn của Thúy Kiều ra đời từ đó và trở thành bất tử. Trong tiếng đàn ai oán nỉ non, lúc gió thả mưa sầu, lúc trong lúc đục của Thúy Kiều phải chăng có âm hưởng của nhạc cổ điển Huế? Có lúc Hoàng Phủ Ngọc Tường lại hóa thân vào một nghệ nhân già, nghe những câu thơ tả tiếng đàn của Thúy Kiều, chợt nhận ra âm hưởng của âm nhạc cung đình và bật thốt lên: “Đó chính đại tứ cảnh”. Bóng dáng Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần xuất hiện trong bài kí bộc lộ một khả năng liên tưởng phong phú, một vốn liếng văn hóa sâu rộng và sự gắn kết với truyền thống, một đồng điệu tâm hồn của nhà văn.

Bằng những kiến thức phong phú, với một cách viết đầy chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường thức dậy một dòng sông đã gợi cảm hứng sáng tạo cho bao người nghệ sĩ xưa, nay và cả mai sau. Với cách viết liên văn bản, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm sống dậy những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về Huế “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Giữa “màu cỏ lá xanh biếc” của một nhà văn rất Huế và “dòng sông trắng – Lá cây xanh” trong con mắt đa

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/04/2022