nghi lễ truyền thống Hara-kiri của Nhật Bản (nghi lễ mổ bụng - trong đó kí tự “hara” trong tiếng Nhật có nghĩa là linh hồn, đối với người Nhật, bụng chính là nơi cất giữ linh hồn con người, trung tâm của tư tưởng và cảm xúc; tim - biểu tượng cho ngôi nhà của linh hồn con người; đầu - biểu tượng cho chỗ ngồi của linh hồn, ghế quyền lực ở một số nền văn hóa cổ đại). Hơn nữa hành động mổ bụng và phơi bày ruột mèo ra trước ánh sáng của Johnnie Walker gợi liên hệ đến biểu tượng mê cung
– “nơi dẫn vào nội tâm của bản thân, tới một điện thờ ẩn giấu bên trong con người, nơi tọa lạc cái phần huyền bí nhất của nhân tính”, nơi chứa những gì thuộc về bản ngã bên trong cũng như những bí ẩn của thế giới vô thức” [11,592]. Người đọc có thể liên tưởng ngay đến chủ đề sáng tạo của điêu khắc gia Koichi Tamura trong thế giới thực: “Chủ đề chính của ông là tiềm thức con người... Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông, một xê ri lớn mang tên Mê cung, với một trí tưởng tượng phóng khoáng, khảo sát cái đẹp và cảm hứng tìm thấy nơi những ngóc ngách ngoằn nghèo của mê cung” [50,225].
Nếu như Johnnie Walker khao khát thu thập tất cả những linh hồn mèo nhỏ bé để làm nên cây sáo quyền lực thì Koichi Tamura “làm ô nhiễm tất cả những gì ông đụng vào, làm tổn thương tất cả những ai ở quanh ông”. Ngay cả các thành viên trong gia đình cũng “chả hơn gì một bức tượng của ông ấy. Một thứ ông ấy có thể tạo ra hay đập vỡ tùy theo ông thấy có thích hợp hay không” [50,232]. Cả hai đều khao khát quyền lực và khao khát kiểm soát mọi thứ, kể cả linh hồn, bản ngã của mỗi cá nhân. Điều đó khiến cho hành trình tìm kiếm và bảo vệ (linh hồn) mèo – bảo vệ bản ngã của Nakata và Kafka cùng dẫn họ đến một hành vi giống nhau trong thế giới vô thức: giết chết Koichi Tamura và phiên bản lạ, một thực thể tinh thần của ông – Johnnie Walker.
4.2.3. “Mèo”: Còi tăm tối, tội lỗi
Mèo trong tiểu thuyết Murakami không chỉ xuất hiện trong thế giới thực mà còn bước chân vào thế giới ảo, không chỉ mang điềm lành mà còn là biểu tượng cho điềm xấu, cho cái ác. Từ xa xưa, trong văn học dân gian Nhật Bản, những con mèo quỷ (nekomata) xuất hiện sớm từ thời Kamakura trong tác phẩm Meigetsuki của Fujiwara no Teika. Tác phẩm kể về một nekomata đã tấn công, giết và ăn thịt những người lang thang quá sâu vào hốc núi và giết nhiều người trong một đêm. Sự chuyển đổi thực sự trong các truyền thuyết của nekomata xuất hiện trong thời kỳ giữa Edo. Trong khi những ngọn núi vẫn được coi là nơi ở của những con thú kì lạ, một niềm tin nảy sinh rằng nekomata đã tiến hóa từ những con mèo nhà thông thường đã sống rất lâu, chúng có đuôi chẻ ra làm hai, ăn thịt người, và nhạy cảm với
mùi xác thối.
Ở chương tám của tiểu thuyết 1Q84 - Một lát nữa lũ mèo sẽ đến, Murakami giới thiệu một câu chuyện kì quái mang tên “Thành phố mèo” của một tác giả người Đức, nằm trong tuyển tập truyện ngắn mà Tengo, nhân vật nam chính đọc trên hành trình đến viện dưỡng lão thăm người cha mắc bệnh đãng trí của mình ở Chikura. Đó là câu chuyện về một chàng thanh niên trẻ trong kì nghỉ “không có đích đến” đã đặt chân một thành phố dường như bị bỏ rơi, “hoàn toàn không có con người sinh sống” nhưng “thực ra đây là một thành phố nhỏ của loài mèo” [56,139]. Mọi thứ thay đổi khi mặt trời lặn, “đủ loại giống mèo với màu sắc và vằn vện khác nhau,... to hơn mèo bình thường”, bắt chước hành vi của những người đã từng sống ở đó và tham gia vào tất cả các hoạt động của con người. Mèo được khoác lên những hành vi giống người, hay nói cách khác chúng là những con mèo quỷ được Murakami vay mượn từ văn học dân gian Nhật Bản từ khía cạnh tiêu cực.
Đơn độc một mình, nhưng thay vì chạy trốn khỏi thành phố, chàng thanh niên tò mò ở lại, ban ngày quan sát thành phố, ban đêm trốn trên gác chuông để tìm hiểu cuộc sống của lũ mèo. Đến đêm thứ ba thì anh bị phát hiện, những con mèo chia thành nhóm để săn tìm chàng thanh niên. “Lũ mèo hình như rất giận dữ vì có mùi con người. Bọn chúng rất to, lại có móng vuốt sắc bén và những chiếc răng dài trắng ởn nhọn hoắt” [56,141]. Mặc dù lũ mèo không tìm được anh nhưng chàng thanh niên nhận ra “ở lại đây quá nguy hiểm” và quyết định rời khỏi thành phố. Nhưng sáng hôm sau, tàu không dừng lại, để anh mắc kẹt mãi mãi trong thành phố mèo. Hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Chẳng mấy chốc nữa là tới giờ lũ mèo đến. Kết thúc câu chuyện không thấy tác giả nhắc đến số phận của chàng thanh niên, có lẽ anh đã bị lũ mèo xé xác, ăn thịt, vì thành phố mèo này “là nơi định sẵn để anh biến mất” [56,142]. Nói cách khác, thành phố mèo là nơi dung chứa cho cái ác hoành hành và tồn tại.
Có thể bạn quan tâm!
- ?nhà”: Kết Nối Và Khôi Phục Bản Ngã
- Biểu Tượng Đ Ng Vật Và Mối Quan Hệ Với Thế Giới N I Tâm Con Người
- ?mèo”: Sự Kết Nối Và Khát Khao Được Là Chính Mình
- ?chim”: Biểu Tượng Của “Tinh Thần Phiêu Lưu” Qua Thế Giới Thực - Ảo
- ?cừu”: Biểu Tượng Của Tội Lỗi
- Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami - 20
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
Thành phố mèo trong tiểu truyện còn xuất hiện lần nữa trong cuộc trò chuyện khi Tengo và Aomame trở lại bên nhau ở chương 29 - Không bao giờ buông bàn tay này ra nữa: “Chúng ta sẽ rời khỏi thành phố mèo ngay bây giờ”; “Là thành phố nhỏ ban ngày bị chi phối bởi cô đơn hằn sâu, ban đêm bị chi phối bởi lũ mèo to tướng. Nhưng đó không phải là nơi chúng ta nên dừng chân”; “Chỉ cần rời thành phố này thì dù ngày hay đêm chúng ta sẽ vĩnh viễn không bao giờ xa nhau” [56,473]. Thành phố mèo hay thế giới 1Q84 chính là nơi dung chứa cái ác đang bủa vây Tengo - Aomame và từng giây từng phút đe dọa hủy diệt tình yêu của họ.
Trong Người tình Sputnik, mèo được liên kết với sự tàn bạo, ăn thịt người qua
bài báo viết về một bà lão bảy mươi tuổi ở Athens bị ăn thịt bởi ba con mèo yêu quý của bà. Bà lão chết sau cơn đau tim, trên ngưỡng chết vì đói, các con vật buộc phải ăn xác chết của chủ mình. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh những con mèo đang chết đói trong căn hộ đóng kín của nhân vật tôi, “những con thú ăn thịt nhỏ bé, mềm mại”. Và “Tôi – cái tôi đích thực – đã chết, còn chúng vẫn sống đang ngấu nghiến thịt da tôi, nhai tim tôi, hút máu tôi. Ba con mèo nhỏ vây quanh cái đầu vỡ toác của tôi, húp xì xụp thứ chất lỏng xám mềm bên trong” [51,230]. Mèo ở đây trở thành biểu tượng tâm linh của miêu nữ - nhân vật Izumi khi biến mất vào thế giới khác đã đem theo danh tính, cái tôi đích thực của nhân vật tôi, để lại thế giới thực một cái tôi khác trống rỗng và vô nghĩa.
Theo văn hào Mỹ John Updike, “mèo thường xuyên xuất hiện trong tiểu thuyết của Murakami, như đại biểu đến từ một thế giới khác” [141]. Mèo của Murakami là những sinh vật giàu sức mê hoặc và luôn đặt câu chuyện trong sự chuyển động. Biểu tượng mèo của Murakami phong phú, đa diện và đa sắc thái nghĩa. Chúng là trung tâm của câu chuyện và sự biến mất của chúng đẩy những câu chuyện về phía trước. Mèo có chức năng như phong vũ biểu dự đoán sự phát triển, thăng trầm của các mối quan hệ liên nhân. Ngay cả khi chúng biến mất, chúng đóng vai sứ giả của những cuộc phiêu lưu, phá vỡ sự tồn tại ngày qua ngày của nhân vật chính và của người đọc, mời họ tham dự cuộc hành trình khó khăn vào mê cung bí hiểm của tâm trí con người.
4.3. Biểu tượng “chim”
4.3.1. “Chim”: Biểu tượng của tình yêu, tính dục
Từ xưa, biểu tượng chim đã xuất hiện với tư cách là sản phẩm của tín ngưỡng, quan niệm, tư duy của con người. Từ thực tiễn sản xuất, sinh hoạt của con người thời nguyên thủy đã được “phản ánh vào lĩnh vực tinh thần theo một thế giới quan đậm màu sắc linh luận”. Và tôtem giáo đã nảy sinh từ đấy. Trong tư duy của người cổ xưa, chim (và các loài động vật khác) là loài vật thiêng liêng, quan trọng trong cuộc sống của con người. Chim trở thành biểu tượng quen thuộc, xuất hiện trong các công trình kiến trúc điêu khắc, hội họa,
“Chim là một hình tượng rất thường gặp trong nghệ thuật Châu Phi, nhất là trên mặt nạ. Chim tượng trưng cho sức mạnh và sự sống; nó thường là biểu tượng của sức sinh sản” [11,172-173]. Trong văn hóa Việt, tổ tiên người Việt thuộc họ “Hồng Bàng” và là “giống Rồng Tiên” (Thành ngữ “con Hồng cháu Lạc, con Rồng cháu Tiên). Hồng Bàng nghĩa là loài chim nước lớn (chữ hồng ghép với chữ giang là sông nước, và chữ điểu là chim, bàng là lớn). Tiên Rồng là một cặp đôi vật tổ
theo lối triết lí âm dương, trong đó Tiên được trừu tượng hóa bằng giống chim, cho nên mới có truyền thuyết mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng.
Ngoài ra, tùy thuộc vào từng vùng văn hóa, từng quốc gia, biểu tượng chim còn mang nhiều sắc thái ý nghĩa khác nhau. Theo các tài liệu cổ xưa nhất trong kinh sách đạo Vệ Đà cho thấy, chim được coi là biểu trưng của tình bằng hữu giữa thần linh với con người (...). Trong thế giới người Celtes, chim nói chung là sử giả hoặc trợ thủ của các vị thần và của Thế giới khác. Chim cũng được dùng làm biểu tượng cho sự bất tử của linh hồn trong kinh Coran và trong thơ ca Hồi giáo. Trong tiếng Hi Lạp, từ “chim” có nghĩa là điềm trời hay thông điệp của trời. Chim cũng có nghĩa như thế ở Đạo giáo, ở đây các bậc thần tiên hóa thành chim để trút bỏ sức nặng của còi trần và làm nổi bật tính tinh nhẹ. Chim đối lập với rắn như biểu tượng của thiên gian đối lập với biểu tượng của thế gian.
Động vật nói chung và loài chim nói riêng được các nhà văn sử dụng để “tượng trưng, phóng đại, và chiếu sáng các khía cạnh của kinh nghiệm và tưởng tượng của chính họ” [145]. Trong tiểu thuyết của mình, Murakami khéo léo sử dụng biểu tượng chim như một trong những biểu tượng động vật phong phú. Đó là sự kế thừa có chọn lọc hệ thống biểu tượng của vô thức tập thể, đồng thời là sự sáng tạo, mang phong cách riêng.
Trong Con người và những biểu tượng của nó, Jung khẳng định: “Sự có nhiều đến thừa thãi những biểu tượng động vật trong các tôn giáo và nghệ thuật mọi thời đại không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của biểu tượng. Nó cũng cho thấy đối với con người là quan trọng đến nhường nào sự thống hợp trong cuộc sống của mình cái nội dung tâm lý của biểu tượng, tức là cái bản năng...” [11,317]. Chim trong tiểu thuyết Murakami là biểu tượng của “libido, năng lượng dục tình”, “cái linh hồn bản năng trong con người” [11,317].
Trong tiểu thuyết Nhảy, nhảy, nhảy, nhân vật chính đã trải qua hành trình kì lạ. Anh bị thôi thúc bởi tiếng khóc của cô gái – người anh từng yêu, từ trong bóng tối ở khách sạn Cá heo. Qua hành trình đó, việc gặp gỡ một cô bé 13 tuổi đang gặp rắc rối nhưng có tài tiên tri và gia đình phức tạp của cô, đã kết nối nhân vật tìm đến điểm cuối cùng của sự thật. Bố mẹ đều là những người giàu có, nhưng họ đã li hôn từ khi cô bé còn nhỏ. Mặc dù sống với mẹ - một nhiếp ảnh gia nổi tiếng, nhưng cô bé lúc nào cũng thấy cô đơn. Nhân vật tôi tình cờ trở thành một “bảo mẫu” bất đắc dĩ khi cô bé rất tin tưởng và dành sự quan tâm đặc biệt cho anh. Được sự gửi gắm của bố cô bé, anh đã đưa cô bé đi chơi ở Hawaii. Tối hôm đó, anh đã lên giường với một cô gái – một món quà tình dục mà Hiraku Makimura – bố cô bé trả ơn cho sự
tử tế của anh, dành cho con gái duy nhất của mình. Khi cô bé biết sự thật, Yuki đã giận anh suốt ba ngày liền. Đứng trước những câu hỏi xoáy thẳng vào một vấn đề tế nhị, nhân vật tôi đã lựa chọn cách giải thích với một cô bé đang bước vào tuổi dậy thì thật gần gũi, dễ hiểu:
“Đàn ông có khát khao sinh lý là muốn ngủ cùng phụ nữ,” tôi giải thích. “Đó là một điều tự nhiên. Là sự duy trì nòi giống...”
“Cháu không quan tâm đến duy trì nòi giống. Cháu không biết về khoa học hay sinh sản. Cháu muốn biết về nhu cầu tình dục. Nó như thế nào?”
“Được thôi, giả sử cháu là một con chim,” tôi nói, “và bay là một việc làm cháu thực sự thích thú và vui vẻ. Nhưng hoàn cảnh, trừ vài trường hợp hiếm hoi, ngăn không cho cháu bay. Chú không biết, nhưng cứ cho đó là khi thời tiết xấu, hướng gió, mùa trong năm, những thứ tương tự như thế. Nhưng càng không được bay, cháu lại càng muốn bay và số năng lượng tích tụ trong người khiến cháu không thể chịu được. Cháu sẽ thấy bị dồn nén hay một cảm giác gì đó tương tự như vậy. Cháu thấy khó chịu, và có thể còn cáu giận nữa. Cháu hiểu chứ?”
“Cháu hiểu,” con bé nói. “Cháu hay có cảm giác đó lắm.” “Phải. Đó chính là ham muốn tình dục” [55,383].
Nếu như trong Nhảy, nhảy, nhảy, Murakami đã dùng hình ảnh cánh chim bay để so sánh với hành vi tính dục, thì trong Người tình Sputnik, ông để cho nhân vật mình “trở thành một con chim nhỏ hoàn hảo” bởi cái nắm tay ấm áp của cô bé Shimamoto-san lúc mười hai tuổi: “Tôi bay trên trời, đón gió lẫn vào từng sợi lông. Từ trên trời, tôi ngắm nhìn những cảnh tượng xa xôi. Ngay cả khi chúng quá xa để có thể nhìn chính xác có gì ở đó, từ nay tôi đã biết là chúng tồn tại. Rồi một ngày tôi sẽ có thể đi đến đó. Sự thật này khiến tôi thấy ngạt thở, ngực rung lên” [51,25]. Nhân vật lâng lâng trong hạnh phúc bởi “sự đụng chạm mềm mại làm trái tim tôi ấm lên suốt nhiều ngày sau đó” [51,25]. Cái cảm giác vô cùng khác biệt ấy chính là cảm xúc tình dục mơ hồ đầu tiên của những đứa trẻ chuẩn bị bước vào tuổi dậy thì.
Với Murakami, tình dục “không chứa quan niệm thanh tục, tìm đến với tình dục là để đốn ngộ, để đạt đến trạng thái tự ngã tinh thần” [46]. Không hề né tránh mà chân thực, cởi mở, Murakami xem đó là “cánh cửa quan trọng để bước vào thế giới tâm linh của con người”. Nhưng tình dục phải gắn với tình yêu, trong sự hòa hợp giữa thể xác và tinh thần đến từ hai phía. Nhân vật Murakami luôn xem tình yêu là cứu cánh, nhưng hầu hết họ đều không thể đạt đến tình yêu đích thực. Trong Biên niên kí chim vặn dây cót, hình ảnh chim bồ câu xuất hiện vào buổi sáng Chủ nhật êm đềm – bước ngoặt cho mối quan hệ giữa Toru Okada và Kumiko sau hai
tháng hẹn hò. Họ đã sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc hạnh phúc, nhưng quan trọng hơn, Kumiko đã mở cánh cửa thế giới nội tâm đầy biến động bên trong để Toru hiểu thêm về cô: “7 giờ rưỡi sáng Chủ nhật: khi mọi âm thanh đều êm dịu và nhẹ bỗng. Tôi nghe tiếng bồ câu vỗ cánh bay ngang qua mái căn hộ của tôi...” [48,87]. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh chim bồ câu lại xuất hiện trong một không - thời gian bình yên như vậy. Bởi lẽ chim bồ câu chính là “biểu tượng của tình yêu... ”; “với sự định giá một cách khác khái niệm trong trắng, không đối lập nó mà hòa nhập nó với tình yêu xác thịt, bồ câu, con chim của nữ thần Aphrodite, biểu thị cho ái ân trọn vẹn mà người yêu thương tặng cho đối tượng của mình” [11,98]. Với “Ý nghĩa tượng trưng cho tình yêu thể hiện rò hơn ở đôi chim bồ câu” [11,98], sự xuất hiện của chúng đều mang tính cặp đôi. Đây là loài rất chung thủy, đến độ tuổi trưởng thành thì sẽ sống theo cặp và luôn quấn quýt, gắn bó với nhau... Murakami đã rất khéo léo khi đan cài biểu tượng này trong những giờ khắc hạnh phúc nhất của hai nhân vật. Bồ câu trong văn cảnh đó biểu thị cho sự thăng hoa của bản năng và đặc biệt là sự thăng hoa của ái tình. Và đó cũng là điểm khởi đầu đặc biệt để vài tháng sau, Toru và Kumiko bước vào thiên đường hạnh phúc của riêng họ...
Thế nhưng, từ khi mối quan hệ giữa hai vợ chồng Kumiko và Toru bắt đầu có dấu hiệu rạn vỡ, hình ảnh “một con chim bồ câu đơn độc” [48,20] xuất hiện liên tục trong những lần Toru đi tìm con mèo Noboru – mở đầu cho hành trình Toru tìm kiếm Kumiko và giải mã sự bí ẩn của chính mình. Nếu như việc con mèo mất tích biểu tượng cho sự kết nối giữa hai vợ chồng bị phá vỡ, thì hình ảnh con bồ câu đơn độc chính là dự báo về quan hệ hôn nhân không bền vững. Trong bức thư gửi cho anh sau khi bỏ đi, Kumiko đã thú nhận về sự rạn vỡ này: “trong vòng tay anh, em không còn cảm nhận được gì cả. Hẳn anh cũng nhận thấy thế. Suốt gần hai tháng, em cố nặn ra đủ cớ này cớ nọ để tránh quan hệ tình dục với anh (...). Giữa anh và em luôn luôn có một cái gì rất gần gũi và tinh tế. Ngay từ đầu đã như vậy. Nhưng giờ đây nó đã mất đi vĩnh viễn. Cái sự ăn rơ tuyệt vời đó, cái điều huyền bí đó, đã bị hủy diệt. Bởi chính em đã hủy diệt nó” [48,322]. Như thế, “chim” là biểu tượng cho các sắc thái tình yêu cũng như những cung bậc vui buồn của nó. Murakami đã sử dụng rất tài năng tính đa nghĩa của biểu tượng này để khắc họa những chuyển động tinh tế trong đời sống tâm hồn con người.
4.3.2. “Chim”: Biểu tượng cho sức mạnh của thần linh
Sự đồng điệu về mặt tinh thần và thể xác chính là điều kiện cần và đủ cho một tình yêu thăng hoa. Nhưng khi thể xác và tinh thần “không thể gặp nhau trong một
cuộc hôn phối vẹn toàn”, đó sẽ là khởi đầu cho một bi kịch: “Thông qua sự bất lực tình dục của nhân vật, Murakami đã chạm đến đáy nỗi cô đơn tận cùng của con người” [72]. Nói cách khác, “Hạnh phúc thì chỉ có một loại nhưng bất hạnh thì đến dưới mọi dạng, mọi cỡ” [50,179]. Sự mất mát, bất hạnh, bi kịch... là mẫu số chung mà Murakami khoác lên cho thế giới nhân vật của ông. Sự bất hạnh này có thể đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau như từ sự đổ vỡ các giá trị, hoàn cảnh xã hội... và ở một số tác phẩm, nhà văn còn lí giải từ sự phi lí của số phận: “vấn đề cơ bản không phải là những gì con người đã được tạo ra, mà là những gì con người tạo ra từ những gì mình bị tạo ra” [68]. Để làm rò sự chi phối của số mệnh, Murakami đã sử dụng biểu tượng chim như một minh họa cho sự lí giải của mình. Chim trong tiểu thuyết Murakami còn “được coi là đồng nghĩa với số mệnh” [11,173], biểu tượng cho số mệnh. Chim là vật báo hiệu cho sự diệt vong, cái chết, sự kết tội, số phận bất hạnh, là nguồn gốc của số mệnh chết chóc. Chim theo nghĩa này là biểu tượng cho sức mạnh của thần linh, kiểm soát định mệnh con người.
Đọc Biên niên kí chim vặn dây cót, người đọc sẽ cảm thấy tò mò từ nhan đề của tiểu thuyết cho đến sự xuất hiện của hình ảnh con chim vặn dây cót xuyên suốt từ đầu cho đến cuối tác phẩm. Con chim xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết như một sinh vật ma quái, không ai có thể nhìn thấy, trừ những người bị nguyền rủa hoặc mang trong mình số mệnh bi thảm. Tiếng kêu của nó xuất hiện trong những khoảnh khắc căng thẳng, hoặc trùng hợp với những lời tiên tri ẩn dụ về cái chết. Sức mạnh bí ẩn của chim vặn dây cót được nhân vật Quế dùng “như một cụm từ khóa”, để đặt tên cho mười sáu truyện do anh ta viết ra “để cố tìm kiếm ý nghĩa tồn tại của mình”, “để điền vào những ô trống trong quá khứ mà anh ta không thể với tay tới được” [48,610]. Nó “có một sức mạnh lớn lao”, “Tiếng kêu của nó chỉ một vài người nghe được, mà hễ nghe là cầm chắc cái chết không tránh khỏi. Ý chí con người chẳng là cái quái gì vào lúc đó...” [48,611]. Con người không có quyền quyết định số phận chính mình: “Số mệnh sẽ đòi phần của nó, và chừng nào chưa nhận được phần mình, nó sẽ không đi đâu cả” [48,592]. Con người giống như những con rối cử động dưới sự điều khiển của con chim vặn dây cót, trở thành thú tiêu khiển của nó: “Con người ta chẳng gì hơn là những con búp bê trên mặt bàn, lò xo quấn chặt sau lưng, búp bê chỉ có thể chuyển động theo những cách không phải do nó chọn, đi về những hướng không phải do nó chọn. Hầu như tất cả những ai nằm trong tầm tiếng kêu của con chim vặn dây cót đều gặp tai ương, đều bị hủy diệt. Hầu hết là chết, do rơi khỏi mép bàn” [48,611].
Chúng ta dễ dàng bắt gặp những nhân vật mang trong mình mầm mống của bi
kịch khi họ tình cờ nghe được tiếng chim vặn dây cót bí ẩn. Đó là hai vợ chồng Toru Okada - Kumiko mỗi ngày đều “nghe tiếng kêu như bằng kim khí của một con chim, nghe như nó đang vặn dây cót đồng hồ vậy” [48,13]. Con chim không có hình thù, không có tên nhưng “Ngày nào cũng vậy, nó đến đậu trên rặng cây nhà hàng xóm để lên dây cót cho cái thế giới nhỏ bé tĩnh lặng của chúng tôi” [48,13]. Từ khi con mèo biến mất, dòng chảy bị tắc mạch, con chim xuất hiện như một điềm báo. Những căng thẳng là dấu hiệu của sự đổ vỡ, và đỉnh điểm là Kumiko bỏ nhà đi một cách bí ẩn. Cả hai đều rơi vào bi kịch, họ hoang mang, lạc lối trong mê cung ngục thất của chính mình.
Đó là nhân vật Quế với kí ức khủng khiếp khi anh ta nghe được tiếng chim vặn dây cót vang lên đầy riết róng giữa một đêm định mệnh năm anh ta tròn sáu tuổi. Con chim vặn dây cót đã mấy lần liên tiếp vặn dây cót trên cây thông tắm trong ánh trăng, trong khu vườn nhà cậu bé Quế. Cậu bé không nghe thấy âm thanh nào khác ngoài tiếng kêu kì lạ của con chim kia. Ánh trăng vằng vặc “rọi sáng khu vườn như ánh sáng ban ngày” đã giúp cậu bé phát hiện ra sự xuất hiện của hai người đàn ông “quỳ gối như hai bóng đen kịt dưới gốc cây”. Một người đàn ông bé nhỏ giống bố cậu bé “ở mọi điểm: dáng người giống, cử chỉ cũng giống” [48,417]. Người đàn ông bé nhỏ đó leo nhanh thoăn thoắt lên cây thông “nhẵn thín, trơn tuột, đã vậy lên đến trên cao thì chẳng có gì để bám” và biến mất vào bóng đêm. Còn người đàn ông cao lớn đang đào một cái hố sâu để chôn “một vật bọc vải nom đen đen. Cái vật ấy mềm, nhũn”, đó chính là một trái tim người. Trong khoảnh khắc đó, “đột nhiên con chim vặn dây cót lại cất tiếng kêu. Không chỉ kêu một tiếng mà cả một tràng dài liên tục Quick... quick” [48,417], “lần này vặn dây cót lớn hơn bao giờ hết” [48,418]. Khi nghe tiếng kêu đó, cậu bé cảm thấy bằng trực giác một cái gì rất nghiêm trọng sắp xảy ra. Cậu bé chìm sâu vào giấc ngủ và mơ một giấc mơ sống động như thật. Cậu bé đi ra ngoài vườn, nhặt xẻng và bắt đầu đào cái lỗ mà người đàn ông cao lớn vừa lấp lại. Trong mơ, cậu bé hoàn toàn không thấy sợ, chú mở túi ra, “trái tim người còn tươi rói, còn sống nguyên và cử động”. Tiếng chim vặn dây cót không còn cảnh báo nhưng cậu bé nhận ra mình đã bị đẩy bật khỏi thế giới quen thuộc. Sáng hôm sau thức dậy, trở lại thế giới thực, cậu bé nhận ra “chính mình đã bị trút vào một cái vỏ chứa khác. Cái cơ thể mới này có gì đó không khớp với cái tôi nguyên thủy của chú” [48,491].
Quế vĩnh viễn ngừng nói ngay trước sinh nhật lần thứ sáu. Cậu bé vẫn phát triển bình thường nhưng không bao giờ nói nữa. Từ đây cậu bé phải đối diện với bi kịch của số phận: bố bị giết với khuôn mặt và nội tạng bị đâm nát, riêng trái tim