viên, dự thẩm viên, kiểm sát viên và tòa án áp dụng đối với bị can (người bị tình nghi) nếu có đủ căn cứ cho rằng bị can trốn tránh việc điều tra, dự thẩm hoặc trốn tránh tòa án, cản trở việc xác minh sự thật về vụ án, hay sẽ tiếp tục hoạt động phạm tội, cũng như để đảm bảo việc thi hành án [3, tr.673].
BLTTHS Việt Nam hiện hành mặc dù không đưa ra một khái niệm về BPNC, tuy nhiên tại Điều 79 BLTTHS 2003 cũng đã quy định các căn cứ áp dụng các BPNC như sau:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [18].
Các căn cứ này cũng đã phản ánh một phần bản chất của của các BPNC của pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, BPNC là biện pháp cưỡng chế tố tụng rất nghiêm khắc, đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng về chủ thể áp dụng, về thẩm quyền áp dụng, về đối tượng bị áp dụng, về căn cứ và mục đích áp dụng để từ đó mới có thể hiểu một cách thấu đáo và vận dụng đúng đắn vào thực tiễn.
Giáo trình luật TTHS Việt Nam - Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng: BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn cấp. Nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây khó khăn cho việc điều tra truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn [30, tr.133].
Cuốn "Tội phạm học, luật hình sự và TTHS" lại giải thích rằng BPNC là một loại biện pháp do cơ quan điều tra, VKS và Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết án khi
các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội. BPNC gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Có thể nói rằng, các sách báo, tài liệu nêu trên đã nêu lên được khía cạnh này hay khía cạnh khác khái niệm về các BPNC. Một khái niệm hoàn chỉnh, chính xác về các biện pháp ngăn chặn thì trong khái niệm đó phải hàm chứa tất cả các dấu hiệu đặc trưng của các BPNC như: căn cứ áp dụng; mục đích áp dụng; thẩm quyền áp dụng và đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn. Vì vậy có thể hiểu:
Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố; khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. Biện pháp ngăn chặn gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Việc quy định các BPNC nhằm đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền được thực hiện thuận lợi, việc chứng minh vụ án đạt kết quả tốt, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm. Đồng thời góp phần bảo đảm việc thực hiện dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ.
Có thể bạn quan tâm!
- Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Kạn - 1
- Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Kạn - 2
- Quy Định Về Thẩm Quyền Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giam
- Quy Định Về Biện Pháp Tạm Giam Trong Pháp Luật Một Số Nước Trên Thế Giới
- Đặc Điểm Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Có Ảnh Hưởng Đến Việc Áp Dụng Pháp Luật Về Biện Pháp Tạm Giam Trong Hoạt Động Giải Quyết Vụ Án Hình Sự
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp ngăn chặn tạm giam
Tạm giam là một BPNC trong TTHS. Nó là biện pháp bảo đảm cho hoạt động TTHS đạt được hiệu quả cao, đồng thời thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với người có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, khi áp dụng BPTG vào quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật, để bảo đảm các quyền của công dân, góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Bản chất pháp lý của BPTG còn thể hiện ở chỗ: đây là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước áp dụng đối với các đối tượng nhất định và trong những trường hợp do pháp luật quy định, nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc gây cản trở cho các hoạt động tố tụng.
Theo Điều 88 BLTTHS thì đối tượng bị áp dụng BPTG chỉ có thể là bị can, bị cáo tức là những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử và không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị tạm giam mà chỉ áp dụng khi bị can, bị cáo rơi vào trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng;
- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Là biện pháp cưỡng chế nhà nước, pháp luật nước ta chỉ quy định một phạm vi hẹp những cơ quan và cá nhân có thẩm quyền áp dụng BPTG, đó là:
- Viện trưởng, phó Viện trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp.
- Chánh án, phó chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp.
- Thẩm phán là Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC.
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Tạm giam là biện pháp tạm thời tước tự do do Cơ quan điều tra, VKS,
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp do luật định. Thời hạn
tạm giam phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng cũng như tính chất phức tạp của vụ án mà bị can, bị cáo phải thực hiện
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất trong số các BPNC. Nếu như các biện pháp ngăn chặn khác như cầm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm chỉ ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp. Còn các biện pháp bắt người, tạm giữ cũng là BPNC nghiêm khắc, nó cũng hạn chế quyền tự do của công dân, nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong bắt và tạm giữ ngắn hơn nhiều so với tạm giam. Trong vòng 24 giờ sau khi bị bắt, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai, ra quyết định tạm giữ hoặc trả lại tự do cho người bị bắt. Thời gian tạm giữ là 3 ngày đêm và tối đa là 09 ngày đếm đối với trường hợp có gia hạn tạm giữ. Trong khi đó thời hạn tạm giam để điều tra có thể lên đến 12 tháng hoặc 16 tháng.
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất nhưng tạm giam không phải là hình phạt tù bởi vì mục đích của tạm giam là ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án được tiến hành đúng đắn, còn hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do Tòa án áp dụng nhằm trừng phạt người phạm tội và nhằm mục đích cải tạo họ thành người có ích cho xã hội
Tạm giam là biện pháp có tính chất lựa chọn “có thể áp dụng” tức là không phải bắt buộc áp dụng đồng loạt cho mọi bị can, bị cáo khi đã có đủ căn cứ mà những căn cứ chỉ là điều kiện đủ để áp dụng tạm giam
Với mục đích ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm, việc quy định BPTG trong BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng. BPTG góp phần nâng cao hiệu lục quản lý nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của chế độ XHCN, bảo vệ tài sản, tĩnh mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, tạm giam đúng sẽ góp phần bảo
đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…, tạm giam đúng còn bảo đảm cho việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, bảo đảm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Như vậy, có định nghĩa về tạm giam như sau:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do người có thẩm quyền ở Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng; phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
1.1.3. Mục đích, ý nghĩa của tạm giam
1.1.3.1. Mục đích
Ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng BPNC tạm giam còn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Ví dụ: việc áp dụng BPTG trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, giúp cho quản lý giám sát bị can được chặt chẽ; còn việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành bản án có hiệu lực pháp luật được thuận tiện.
1.1.3.2. Ý nghĩa
Với vai trò là một biện pháp ngăn chặn, tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh và phòng chống các loại tội phạm cũng như bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân, cụ thể:
Một là, tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Với việc áp dụng BPTG sẽ đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vững, chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ, các quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng.
Hai là, tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Đảm bảo không một công dân nào bị tạm giam trái pháp luật, khi áp dụng BPTG không đúng pháp luật quy định, công dân có quyền khiếu nại đến các chủ thể có thẩm quyền.
Ba là, tạm giam là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Bởi đây là biện pháp bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của CQTHTT, đảm bảo sự chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc tìm cách xóa dấu vết phạm tội, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án. Ngoài ra, tạm giam còn đảm bảo cho việc thi hành đúng pháp luật và hiệu lực của bản án đã được tuyên.
Cuối cùng, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Đó là biện pháp bảo đảm cho mọi công dân được sống trong xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối tượng nhất định, bảo đảm cho mọi công dân yên tâm sinh sống, học tập, làm việc tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao nhất.
1.2. Nội dung quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp ngăn chặn tạm giam
1.2.1. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam
Về đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, theo quy định của khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 thì:
Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội [18, Điều 88, Khoản 1].
Theo quy định trên thì đối tượng có thể bị áp dụng BPTG chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can là “người đã bị khởi tố về hình sự” (Khoản 1 Điều 49 BLTTHS 2003), tức là những người có quyết định khởi tố bị can về một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Còn bị cáo là “người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử” (Khoản 1 Điều 50 BLTTHS 2003). Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng BPTG, mà chỉ áp dụng đối với họ trong hai trường hợp sau:
- Thứ nhất, bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù (Khoản 3 Điều 8 BLHS) [18]. Nếu bị can, bị cáo thuộc những trường hợp này, người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể tạm giam ngay mà không cần có thêm căn cứ nào khác.
- Thứ hai, bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt từ trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Theo quy định của BLTTHS, tạm giam chỉ áp dụng đối với những bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm. Đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt từ hai năm trở xuống hoặc hình phạt khác không phải là hình phạt tù thì không áp dụng BPTG. Nếu xét thấy cần thiết, thì CQTHTT có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bão lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định tù trên hai năm, để tạm giam họ cần có thêm điều kiện thứ hai đó là, căn cứ cho rằng họ có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để có thể xác định được thế nào là căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội, thì thường căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc.
Thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa BLTTHS 2003 quy định những trường hợp không được áp dụng BPTG, gồm:
+ Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi,
+ Người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng.
Tuy nhiên, những đối tượng này có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong những trường hợp đặc biệt đó là:
+ Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;