+ Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong thời gian qua;
+ Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong thời gian tới.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
+ Phạm vi nghiên cứu trên toàn quốc, thời gian từ năm 2004 đến năm 2007, đối tượng truy nã chỉ giới hạn trong phạm vi của lực lượng CAND;
+ Tình hình thực tế và số liệu thực tế của luận văn lấy từ các tài liệu, báo cáo thực tế của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC)...
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm cùng với phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành Luật hình sự, TTHS và các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích thuần tuý quy phạm pháp luật...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài phân tích những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật và đánh giá thực tiễn của công tác bắt người đang bị truy nã để đưa ra dự báo về tình hình bắt người đang bị truy nã trong thời gian tới; đồng thời, làm rõ các đặc điểm, yêu cầu, phương hướng và nhiệm vụ của công tác bắt người đang bị truy nã trong thời gian tới, từ đó, đề xuất các giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả công tác bắt người đang bị truy nã, phục vụ tốt hơn cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay nên kết quả rút ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa lý luận thể hiện ở chỗ, luận văn góp phần làm phong phú và từng bước hoàn thiện lý luận chuyên ngành; ở phần thực tiễn, luận văn cung cấp các luận cứ để cán bộ thực tế tham khảo vận dụng vào công tác truy nã người phạm tội bỏ trốn để nâng cao hiệu quả công
Có thể bạn quan tâm!
- Biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Việt Nam - 1
- Nguyên Tắc Bắt Người Đang Bị Truy Nã Trong Tố Tụng Hình Sự
- Thực Trạng Các Quy Định Về Biện Pháp Ngăn Chặn Bắt Người Đang Bị Truy Nã Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
- Các Quy Định Về Biện Pháp Ngăn Chặn Bắt Người Đang Bị Truy Nã Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Hiện Hành (Sau Khi Có Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Năm
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
tác này. Với ý nghĩa như vậy, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo khi học tập, nghiên cứu về chuyên ngành Luật hình sự, TTHS trong các cơ sở đào tạo của ngành Công an và cơ sở đào tạo khác.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
Chương 2. Thực trạng các quy định và thực trạng áp dụng các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
a) Khái niệm bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
Bắt người đang bị truy nã là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS và là một công tác nghiệp vụ quan trọng của lực lượng CAND, có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều tra, xử lý tội phạm nhằm truy bắt những đối tượng phạm tội bỏ trốn để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; đồng thời ngăn chặn các vụ vi phạm pháp luật khác do những đối tượng phạm tội bỏ trốn đó có thể gây ra. Bắt người đang bị truy nã là trường hợp bắt người đã thực hiện hành vi phạm tội rồi bỏ trốn hoặc trốn khỏi nơi giam giữ, nơi thi hành án và cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã. Theo quy định của pháp luật TTHS thì: đối tượng truy nã bao gồm những người sau đây: bị can (người đã bị khởi tố về hình sự) bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; bị cáo (người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử) bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; người bị kết án (người đã bị Toà án kết án tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình đang chờ thi hành án - có thể đang bị tạm giam hoặc cho tại ngoại) bỏ trốn; phạm nhân (người đang chấp hành bản án trong các trại giam, phân trại quản lý
phạm nhân, trong trại tạm giam và nhà tạm giữ) trốn trại.
Xét về hành vi thì người đang bị truy nã chỉ có thể thực hiện hành vi trốn tránh pháp luật chứ không phải là đang thực hiện tội phạm hoặc là ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt nên người đang bị truy nã không phải là người phạm tội quả tang. Song do yêu cầu cấp bách cần
ngăn chặn ngay người bị truy nã trốn tránh pháp luật, nên thủ tục, thẩm quyền bắt người đang bị truy nã cũng được áp dụng như trường hợp bắt người phạm tội quả tang. Người đang bị truy nã phải là người mà các cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã, trong đó ghi rõ tên, tuổi, quê quán, đặc điểm để nhận dạng, có ảnh kèm theo và tội danh. Quyết định truy nã được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và gửi tới các cơ quan có trách nhiệm, được niêm yết ở những nơi công cộng để mọi người phát hiện và bắt giữ người đang bị truy nã.
Bắt người đang bị truy nã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, về mặt lý luận, cho đến nay chưa có khái niệm thống nhất về bắt người đang bị truy nã mà còn có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này. Trong đó có thể phải nhắc đến các quan niệm sau:
Theo Giáo trình truy nã - truy tìm, trường đại học Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, năm 1988, thì: "Truy nã tội phạm là một công tác nghiệp vụ của cơ quan Công an được tiến hành bằng mọi biện pháp cần thiết nhằm bắt lại những người đang trốn tránh pháp luật theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền"[43].
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1992 thì truy nã được hiểu là: "Lùng bắt ráo riết người phạm tội đang lẩn trốn theo lệnh truy nã của cơ quan có thẩm quyền"[45].
Theo Từ điển bách khoa CAND Việt Nam, Nhà xuất bản CAND, 2005 thì: "Truy nã tội phạm là truy bắt người phạm tội đang lẩn trốn theo quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền. Truy nã tội phạm là một hoạt động điều tra trong TTHS, được thực hiện bằng cách áp dụng tổng hợp các biện pháp công tác, nhằm phát hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù hoặc tử hình, phạm nhân đang lẩn trốn phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án"[44].
Từ những khái niệm này có thể thấy rằng, mỗi một khái niệm được nêu trên đây, dù được tiếp cận ở những góc độ khác nhau, nhưng mỗi khái niệm
đều đã phản ánh rõ nét những đặc trưng cơ bản nhất về nội dung, bản chất của biện pháp bắt người đang bị truy nã, đó là: truy tìm, phát hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người có án phạt tù có hiệu lực, án tử hình trốn tránh pháp luật để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; bắt người đang bị truy nã là hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an được tiến hành theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền…
Từ những quan niệm nêu trên, qua nghiên cứu của chúng tôi, có thể đi đến hình thành khái niệm về truy nã người đang phạm tội lẩn trốn như sau: Truy nã người phạm tội lẩn trốn là một trong những hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của lực lượng CAND được thực hiện bằng cách áp dụng tổng hợp các biện pháp mà pháp luật cho phép và các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an nhằm phát hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù hoặc tử hình, phạm nhân đang lẩn trốn, phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
b) Đặc điểm của việc bắt người đang bị truy nã trong TTHS
Bắt người bị truy nã có nhiều nét đặc thù so với bắt các đối tượng khác trong TTHS, nhưng nhìn chung có các đặc điểm sau:
- Mọi công dân đều có quyền bắt giữ đối tượng có quyết định, lệnh truy
nã
Bắt giữ người đang bị truy nã được quy định tại Điều 82 BLTTHS năm
2003, theo đó, khi phát hiện được đối tượng có Quyết định truy nã thì mọi công dân đều có quyền bắt giữ và tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. Đây là quy định thể hiện tính xã hội hoá hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm; thể hiện quyết tâm đấu tranh phòng, chống tội phạm của Nhà nước ta là phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực để truy bắt đến cùng những đối tượng phạm tội bỏ trốn. Với ý nghĩa như vậy, lực lượng CAND cần làm tốt công tác xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc rộng khắp trong nhân dân, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân
giúp đỡ lực lượng CAND trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, phát hiện, bắt giữ người đang bị truy nã nói riêng. Cần tiến hành các hình thức tuyên truyền phong phú để nhân dân hiểu về quyền, nghĩa vụ của mình, từ đó có ý thức tự giác, tích cực tham gia giúp đỡ lực lượng Công an trong công tác bắt người đang bị truy nã. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định truy nã cần tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về bắt người đang bị truy nã để ra quyết định truy nã được đầy đủ, chi tiết, chính xác và thông báo rộng rãi để mọi công dân có thể dễ dàng phát hiện và bắt giữ đúng đối tượng đang bị truy nã.
- Trách nhiệm thực hiện Quyết định truy nã là của cán bộ, chiến sĩ CAND
Quyết định truy nã của các cơ quan có thẩm quyền là cơ sở pháp lý để tiến hành bắt giữ kịp thời người có hành vi phạm tội lẩn trốn, đảm bảo thi hành pháp luật, đồng thời phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng và các biện pháp được áp dụng để bắt người đang bị truy nã đạt kết quả cao. Theo quy định của Bộ Công an, quyết định truy nã là mệnh lệnh chiến đấu đối với mọi tập thể và cá nhân cán bộ chiến sĩ CAND [21], theo đó, tất cả các lực lượng, các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ CAND khi nhận được quyết định truy nã đều phải nghiêm chỉnh chấp hành và tạo những điều kiện cần thiết để truy bắt đối tượng lẩn trốn. Điều này thể hiện rõ nét tính kỷ luật của CAND và tính đảm bảo thực hiện quyết định truy nã bằng quyền lực nhà nước.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, ở những mức độ nhất định, các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ CAND đều phải xác định trách nhiệm của mình trong việc tổ chức thực hiện và phối hợp, tham gia công tác truy nã tội phạm. Việc lẩn tránh, đùn đẩy trách nhiệm thực hiện công tác truy nã tội phạm có ảnh hướng rất lớn tới hiệu quả của việc tổ chức thực hiện bắt người đang bị truy nã và trái với các quy định của pháp luật hiện hành.
- Cơ quan có quyền ra Quyết định truy nã khi bắt được đối tượng hoặc đối tượng đã chết, đã đầu thú, đã được thanh loại, cơ quan đó phải ra Quyết định đình nã và gửi tới những nơi đã gửi Quyết định truy nã
Theo quy định của pháp luật TTHS thì Quyết định truy nã được coi là văn bản khởi đầu và Quyết định đình nã là văn bản kết thúc quá trình truy nã đối với một người nào đó có hành vi phạm tội bỏ trốn. Việc tuân thủ nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo được tính thống nhất trong quá trình tiến hành TTHS và thi hành pháp luật, đồng thời tạo thuận lợi trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá hiệu quả của công tác bắt truy nã tội phạm.
Trong suốt quá trình truy nã tội phạm, những đơn vị, cá nhân có trách nhiệm phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật khi ra Quyết định truy nã và Quyết định đình nã; phải thường xuyên theo dõi và có tinh thần trách nhiệm đến cùng khi tiến hành xác minh, truy nã một đối tượng cụ thể. Khi xác định đối tượng truy nã đã bị bắt hoặc tự thú hay đã được thanh loại ở bất kỳ Công an đơn vị, địa phương nào thì cơ quan đã ra Quyết định truy nã phải kịp thời ra Quyết định đình nã để kết thúc việc truy nã một đối tượng, tránh được những lãng phí về nhân lực, vật lực trong việc tổ chức thực hiện Quyết định truy nã đã được phát hành. Để những cơ quan có chức năng biết và kết thúc việc truy nã đối với đối tượng truy nã đã bị bắt, Quyết định đình nã phải được gửi tới những nơi đã gửi Quyết định truy nã.
1.1.2. Yêu cầu của việc bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Yêu cầu của công cuộc đấu tranh ngăn ngừa, phòng, chống tội phạm nói chung là chủ động ngăn ngừa các hành vi phạm tội xảy ra, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật với các hành vi phạm tội; đồng thời, tìm ra những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm và đưa ra các giải pháp để
hạn chế, triệt tiêu những nguyên nhân đó.
Công tác bắt người đang bị truy nã trong TTHS cũng phải dựa trên những yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung;
theo đó, công tác bắt người đang bị truy nã trong TTHS cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:
a) Tổ chức lực lượng để xác minh, tìm kiếm, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án tù, án tử hình, phạm nhân đang lẩn trốn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền nhằm phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự
Mục đích của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta là bên cạnh việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội, còn phải bảo đảm yêu cầu cải tạo, giáo dục người phạm tội để đưa họ tái hoà nhập cộng đồng, trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội. Vì vậy, khi người phạm tội còn lẩn trốn ở ngoài xã hội, trước hết sẽ gây ra những cản trở cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự; người phạm tội còn lẩn trốn ngoài vòng pháp luật càng lâu, càng có điều kiện để tiếp tục thực hiện những hành vi phạm tội, gây ra những hậu quả xấu cho xã hội và có điều kiện để cản trở việc tìm kiếm, bắt giữ của các cơ quan thi hành pháp luật… Vì vậy, khi phát hiện người phạm tội lẩn trốn, các cơ quan có thẩm quyền phải khẩn trương tổ chức lực lượng, áp dụng các biện pháp để xác minh, truy tìm, truy bắt; việc tổ chức truy bắt phải được tiến hành kịp thời, liên tục, huy động mọi lực lượng, phương tiện, sử dụng mọi biện pháp được pháp luật cho phép để truy bắt đến cùng đối tượng phạm tội bỏ trốn trong thời gian ngắn nhất.
b) Kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi phạm tội và sự câu kết, móc nối đồng bọn của các đối tượng truy nã, không để những đối tượng này hình thành tổ chức, băng, nhóm tội phạm
Vì luôn có ý thức trốn tránh pháp luật, người phạm tội bỏ trốn thường có ý thức đối phó sự truy tìm, truy bắt của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Để tiếp tục lẩn trốn, chúng thường tìm cách câu kết, móc nối, tụ tập thành những tổ chức, băng, nhóm tội phạm và những tổ chức, băng, nhóm tội phạm này thường rất nguy hiểm, thực hiện các hành vi phạm tội nghiêm trọng, tâm lý