Thẩm Quyền Ra Lệnh Và Tiến Hành Khám Xét

Căn cứ khám xét có thể hiểu là những thông tin mà các cơ quan có thẩm quyền thu thập được, qua đó có đủ cơ sở để nhận định rằng ở những đối tượng, địa điểm dự định khám xét đang cất giấu các vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án hoặc ở đó có đối tượng đang bị truy nã lẩn trốn, xác chết hoặc các phần của nó, người bị bắt cóc. Những thông tin này phải được kiểm tra, xác minh, đảm bảo độ tin cậy trước khi sử dụng làm căn cứ.

Theo quy định tại BLTTHS năm 2003, việc khám xét chỉ được thực hiện khi có các căn cứ sau:

1. Việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.

Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã.

2. Khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm [31, Điều 140].

BLTTHS hiện hành không đưa ra căn cứ chung cho các hoạt động khám xét mà đối với mỗi biện pháp khám xét khác nhau lại ghi nhận những căn cứ khác nhau. Cụ thể:

- Căn cứ để tiến hành khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm - căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã.

Công cụ phạm tội được hiểu là tất cả những vật được sử dụng trực tiếp trong quá trình thực hiện tội phạm; phương tiện phạm tội là những vật được sử dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội và

đồ vật, tài sản do phạm tội mà có là tiền bạc hoặc những đồ vật khác có được do mua bán bằng tiền phạm tội, đổi chác những vật do phạm tội mà có. Tuy nhiên, việc quy định các căn cứ tiến hành khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm như trên là chưa đầy đủ, bởi lẽ trên thực tế, các biện pháp khám xét này còn nhằm mục đích phát hiện người bị bắt cóc, tìm kiếm tử thi hoặc các phần của tử thi. Do đó, căn cứ để tiến hành khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng cần phải ghi nhận thêm nội dung này.

- Căn cứ để tiến hành khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm – căn cứ để nhận định trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm chứa những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án cần phải thu thập. Đó có thể là giấy tờ, tiền hoặc những vật khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vụ án đang giải quyết.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Có thể thấy, mỗi biện pháp khám xét có một mục đích riêng và cũng tác động đến những quyền khác nhau của cá nhân, không biện pháp nào giống biện pháp nào. Do đó, việc BLTTHS quy định những căn cứ khác nhau cho các biện pháp khám xét khác nhau là phù hợp với thực tiễn hoạt động điều tra nói chung và khám xét nói riêng.

Trên thực tế, việc xác định căn cứ khám xét là một hoạt động khá phức tạp và khó khăn bởi những tài liệu về đối tượng cần khám xét thường ít ỏi, trong khi đó, hoạt động điều tra khám xét lại đòi hỏi phải tiến hành khẩn trương, đề phòng sự tẩu tán, tiêu hủy những tài liệu, chứng cứ vụ án của tội phạm. Bởi vậy, trước khi ra lệnh khám xét, các cơ quan có thẩm quyền cần phải phân tích, đánh giá tất cả những tài liệu chứng cứ của vụ án có liên quan đến việc khám xét một cách thận trọng, khách quan, toàn diện nhưng cũng cần phải nhanh chóng, kịp thời. Nếu đủ căn cứ khám xét thì ra lệnh khám xét và tiến hành khám xét ngay để phát hiện, thu giữ những tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra.

Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự Việt Nam - 6

Những quy định về căn cứ tiến hành khám xét được quy định trong

BLTTHS năm 2003 tuy còn một số hạn chế nhất định song mang nhiều ý nghĩa trong thực tiễn đều tra cũng như trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Một mặt, những quy định trên tạo cơ sở pháp lý, đảm bảo tính hợp pháp cho hoạt động khám xét của các cơ quan có thẩm quyền, mặt khác góp phần hạn chế sự lạm quyền, giảm thiểu những cuộc khám xét không đảm bảo tính hợp pháp về căn cứ tiến hành khám xét. Điều này đã khẳng định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như nguyên tắc Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân, Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân của luật tố tụng hình sự Việt Nam.

2.1.2. Thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét

2.1.2.1. Thẩm quyền ra lệnh khám xét

Thẩm quyền ra lệnh khám xét được quy định tại BLTTHS năm 2003 như sau:

1. Những người được quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét trong mọi trường hợp. Lệnh khám xét của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

2. Trong trường hợp không thể trì hoãn, những người được quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi khám xong, người ra lệnh khám phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp [31, Điều 141].

Theo quy định trên, những người có thẩm quyền ra lệnh áp dụng biện pháp khám xét là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà

Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT ra lệnh khám xét thì phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trước khi thi hành. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến sự phê chuẩn của Viện kiểm sát như hồ sơ, trình tự thủ tục, thời hạn… lại đang bị bỏ ngỏ, chưa được điều chỉnh. Điều này đã gây cho CQĐT nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện. Vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể ở phần sau.

Theo khoản 2 Điều 141 BLTTHS, trong trường hợp không thể trì hoãn, những người sau đây có quyền ra lệnh khám xét: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT; Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Sau khi khám xong, trong thời hạn 24 giờ, người ra lệnh khám phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp.

Có thể thấy việc pháp luật ghi nhận và trao quyền ra lệnh khám xét cho những chủ thể trên đã thể hiện sự linh hoạt, phù hợp của pháp luật trong những trường hợp khẩn cấp, cần khám xét ngay. Điều này đã góp phần hạn chế tối đa khả năng thủ tiêu, cất giấu hoặc làm thay đổi tính chất những chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án của tội phạm và các đối tượng hữu quan, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động khám xét. Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định nghĩa vụ của các chủ thể trên phải thông báo bằng văn bản đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong thời hạn 24 giờ sau khi khám xong đã đảm bảo sự giám sát chặt chẽ về trình tự, thủ tục khám xét, hạn chế những cuộc khám xét tràn lan, vô căn cứ. Tuy nhiên, quy định này cũng bộc lộ hạn chế là chưa có hướng dẫn cụ thể về việc xác định Viện kiểm sát cùng cấp trong trường hợp lệnh khám xét được ban hành khi tàu bay tàu, biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Hơn nữa, những trường hợp không thể trì hoãn

cũng không được quy định cụ thể trong BLTTHS. Các cơ quan có thẩm quyền chủ yếu phải căn cứ vào diễn biến, tính chất của từng vụ án để quyết định trường hợp nào là không thể trì hoãn, phải tiến hành khám xét khẩn cấp. Trong thực tiễn điều tra, hầu hết các cơ quan có thẩm quyền đều xác định các các trường hợp không thể trì hoãn theo những căn cứ như:

- Có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án, người đang bị truy nã. Nếu không tiến hành khám xét ngay thì rất có thể bị tẩu tán, tiêu hủy, người bị truy nã có thể lẩn trốn, tẩu thoát.

- Những đồ vật, công cụ, phương tiện đang ở trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có thể gây nguy hại cho những người xung quanh hoặc bọn tội phạm có thể sử dụng để tiếp gây án tiếp tục [2, tr.30].

Tuy nhiên, những căn cứ này chỉ mang tính tham khảo chứ không phải là quy định của văn bản quy phạm pháp luật nên không có hiệu lực bắt buộc chung. Do đó, nếu các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tài liệu này để xác định những trường hợp không thể trì hoãn thì không thuyết phục về mặt pháp lý. Nội dung này chúng tôi sẽ kiến nghị hoàn thiện pháp luật ở Chương sau.

2.1.2.2. Thẩm quyền tiến hành khám xét

Khám xét là một biện pháp điều tra được tiến hành trước hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự hoặc trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang. Do đó, thẩm quyền tiến hành khám xét thuộc về các cơ quan được giao thẩm quyền điều tra vụ án hình sự, trước hết là CQĐT. Theo Điều 110 BLTTHS và Điều 1 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, CQĐT gồm có: CQĐT trong Công an nhân dân, CQĐT trong Quân đội nhân dân, CQĐT của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cụ thể như sau:

- CQĐT trong Công an nhân dân gồm: CQĐT của Lực lượng Cảnh sát

nhân dân: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện) và CQĐT của Lực lượng An ninh nhân dân: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh).

- CQĐT trong Quân đội nhân dân gồm: CQĐT hình sự Quân đội; Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương; Cơ quan điều tra hình sự khu vực và CQĐT An ninh điều tra Quân đội: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương.

- CQĐT của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm: Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương.

Xuất phát từ thực tế là tội phạm có thể xảy ra trong tất cả các lĩnh vực, ở tất cả các địa bàn, vào bất kỳ thời điểm nào nên để có thể kịp thời ngăn chặn tội phạm, thu thập chứng cứ ban đầu, hạn chế việc tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán tang vật phạm tội, luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định giao cho một số cơ quan quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực và những cơ quan làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự đất nước được quyền tiến hành một số hoạt động điều tra. Do đó, những cơ quan này cũng có thẩm quyền tiến hành khám xét.

Các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. Đây không phải là các cơ quan tiến hành tố tụng, mà chỉ là các cơ quan quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực nhất định và những cơ quan trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ

an ninh, trật tự xã hội. Các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ có thẩm quyền thực hiện một số hoạt động điều tra ban đầu, sau đó chuyển hồ sơ vụ án cho các cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật. Bởi vậy, các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra nêu trên cũng chỉ được tiến hành khám xét trong phạm vi thẩm quyền điều tra chứ không phải trong suốt giai đoạn điều tra như CQĐT.

Như vậy, người có thẩm quyền ra lệnh khám xét và người thi hành lệnh khám xét là những chủ thể trực tiếp quyết định và thực hiện biện pháp điều tra khám xét đối với những chủ thể bị áp dụng. Những người này phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và những quy định khác có liên quan đến khám xét, nếu có hành vi ban hành hoặc thi hành lệnh khám xét trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà họ sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành [31, Điều 149].

2.1.3. Các biện pháp khám xét cụ thể

2.1.3.1. Khám người

Khám người là việc tiến hành tìm tòi, lục soát trong người, quần áo đang mặc và các đồ vật đem theo, kể cả phương tiện đi lại của họ nhằm phát hiện và thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do tội phạm mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.

Người bị khám xét có thể là bị can, người bị bắt trong các trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người đang bị truy nã hoặc người có mặt tại nơi khám xét. Việc khám người chỉ được tiến hành khi có các căn cứ theo quy định tại Điều 140 BLTTHS. Trình tự, thủ tục tiến hành khám người được BLTTHS quy định như sau:

1. Khi bắt đầu khám người, phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh khám đó, giải thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ.

2. Người tiến hành khám phải yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến hành khám xét.

Khi khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến [31, Điều 142].

Như vậy, hoạt động khám người được bắt đầu bằng việc đọc lệnh khám của người thi hành lệnh. Lệnh khám là một văn bản tố tụng, được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền ra lệnh khám xét, bao gồm các nội dung cơ bản là: căn cứ ra lệnh, họ tên, địa chỉ của người bị áp dụng lệnh, các nội dung tiến hành khám xét. Đối với các trường hợp khám xét nói chung và khám người nói riêng, lệnh khám chính là cơ sở, căn cứ trực tiếp cho việc áp dụng. Do đó, việc quy định người thi hành lệnh khám xét phải đọc lệnh khám trước khi thi hành là hoàn toàn hợp tình, hợp lý, vừa khẳng định tính hợp pháp của cuộc khám xét, vừa đảm bảo sự tôn trọng các quyền công dân của pháp luật. Sau khi đọc xong lệnh khám, người thi hành lệnh phải giao lệnh khám cho đương sự đọc, đồng thời giải thích rõ quyền, nghĩa vụ của đương sự và những người có mặt. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khẩn trương, hiệu quả của hoạt động khám xét, việc khám người có thể tiến hành ngay, không cần có lệnh trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người đồ vật, tài liệu cần thu giữ.

Bước tiếp theo trong thủ tục tiến hành khám người là người thi hành lệnh khám yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật có liên quan đến vụ án. Mục đích của việc làm này là nhằm kêu gọi, vận động sự tự giác, hợp tác của bản thân người bị áp dụng biện pháp điều tra khám người. Theo tinh thần của

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 30/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí