sự chưa quy định cụ thể đối tượng áp dụng, điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chăn này, mức tiền áp dụng với từng loại tội danh hoặc đối với tài sản có giá trị để bảo đảm thì cơ quan, tổ chức nào được định giá, việc bảo quản tiền, tài sản có giá trị như thế nào cũng chưa được quy định rõ…
Để khắc phục tình trạng trên ngày 14/11/2013 các Bộ: Tư pháp, Công an, Quốc phòng, Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua Thông tư liên tịch số 17/2013/TTLT hướng dẫn việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm theo quy định tài điều 93 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đây sẽ là hành lang pháp lý cho cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp này hiệu quả hơn.
Cho đến nay chưa có một công trình khoa học chính thức nào nghiên cứu chuyên sâu về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, phần lớn là các bài viết, bình luận về biện pháp này. Chính vì thế để góp phần hoàn thiện hơn về mặt lý luận và nâng cao hiệu quả áp dụng thực tiễn. Tôi đã lựa chọn đề tài “Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong Tố tụng hình sự” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ luật học
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học hình sự đã có một số công trình nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn như: Bảo vệ con người bằng pháp luật tố tụng hình sự, bài viết của Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội (2007); Nguyễn Văn Tuấn, Một số ý kiến về việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, Tạp chí Tòa án nhân dân số 1 tháng 1 năm 2009; Phạm Ngọc Anh, Băn khoăn chuyện bảo lĩnh trong án hình sự, Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh online (2011); Bài viết của Hoàng Yến, báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, đặt tiền để khỏi bị giam, luật chưa rõ ràng (2010); Pháp luật về biện pháp ngăn chặn, bảo lĩnh và hướng sửa đổi bổ sung, tiến sỹ Trịnh Tiến Việt, khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội.
Các công trình khoa học nói trên, đã gợi mở cho tác giả luận văn nhiều ý tưởng khoa học và là những tài liệu rất bổ ích và giá trị được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài
Tuy nhiên, khái quát những nghiên cứu trên đây cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về biện pháp đặt tiền và tài sản có giá trị để bảo đảm trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam ở cấp cơ sở hoặc đề tài tốt nghiệp thạc sỹ; chưa có tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng, cũng như chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tế để đề xuất các kiến giải lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng hình sự.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
+ Lý luận về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong Tố tụng hình sự
Có thể bạn quan tâm!
- Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong Tố tụng hình sự - 1
- Phân Biệt Biện Pháp Đặt Tiền Hoặc Tài Sản Có Giá Trị Để Bảo Đảm Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Với Biện Pháp Đặt Cọc, Bảo Lãnh, Thế Chấp
- Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong Tố tụng hình sự - 4
- Thực Tiễn Áp Dụng, Những Tồn Tại, Hạn Chế Và Nguyên Nhân
Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.
+ Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1957 đến nay
+ Nghiên cứu về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm trong Tố tụng hình sự trên các phương diện lập pháp và thực tiễn áp dụng để từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm trong Tố tụng hình sự được áp dụng tại 4 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh từ năm 2010 - 2013.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn
Góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp
bảo đảm bằng đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm trong Tố tụng hình sự nhằm góp phần đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng biện pháp này
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
+ Làm rõ cơ sở lý luận về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong Tố tụng hình sự
+ Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong Tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định đó.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong Tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải các tư pháp; những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự, Tố tụng hình sự Việt Nam.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp luật học so sánh.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Hệ thống, phân tích những vấn đề lý luận về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong luật Tố tụng hình sự; đưa ra quan điểm mới về khái niệm, đặc điểm và vai trò của biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
Đánh giá toàn diện các quy định về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm trong Tố tụng, hình phạt trong pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng; thông qua đó phát hiện ra những điểm bất cập, hạn chế và nguyên nhân
Đưa ra những kiến nghị khoa học nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm của Bộ luật Tố tụng hình sự.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luật và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và thực tiễn áp dụng đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Chương 3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẶT TIỀN HOẶC TÀI SẢN CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ BẢO ĐẢM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Lý luận biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
1.1.1. Khái niệm
Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là một biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 93 của Bộ luật Tố tụng hình sự để thay thế biện pháp tạm giam. Đây là một trong ba biện pháp ngăn chặn không mang tính giam giữ được áp dụng đối với bị can, bị cáo để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập. Việc hướng dẫn áp dụng biện pháp ngăn chặn này là rất quan trọng và cần thiết.
Việc nhận thức thống nhất, đồng thời quy định và áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của tố tụng hình sự để phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội .
Bản chất pháp lý biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm được xác định bởi tính chất và nội dung của tác động về vật chất và tâm lý đối với người bị áp dụng. Nếu như bắt người, tạm giữ, tạm giam là biện pháp ngăn chặn tác động cả về thể chất và tâm lý, thì đặt tiền và tài sản có giá trị để bảo đảm chủ yếu tác động về mặt tâm lý đối với người bị áp dụng.
Theo nội dung Thông tư liên tịch Số: 17/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP- BTC-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn về việc đặt tiền để bảo đảm theo quy
định tại Điều 93 của Bô ̣luâṭ tố tun
g hình sự năm 2003 quy định về đối tượng,
điều kiện áp dụng; trình tự thủ tục áp dụng, hủy bỏ biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm (sau đây gọi tắt là biện pháp đặt tiền, tài sản bảo đảm); trả lại tiền hoặc tài sản bảo đảm, áp dụng đối với bị can, bị cáo đang bị
tạm giam, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cơ sở giam giữ, cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan.
Việc áp dụng đặt tiền để thay thế tạm giam, được cơ quan tiến hành tố tụng cân nhắc toàn diện và đầy đủ các điều kiện về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, đối chiếu với yêu cầu về bảo đảm hiệu quả ngăn chặn... Cụ thể, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp đặt tiền, tài sản bảo đảm đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam khi có đủ các điều kiện như: Bị can, bị cáo có nhân thân tốt (chưa có tiền án tiền sự; thành khẩn, ăn năn, hối lỗi; là thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng; là người chưa thành niên phạm tội); Bị can, bị cáo phải có khả năng về tài chính.
Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên mà không có hoặc không đủ tiền, tài sản bảo đảm thì xem xét đến khả năng tài chính của người đại diện hợp pháp; Có căn cứ để tin rằng, bị can, bị cáo có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc không tiêu huỷ, che giấu chứng cứ hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội…
Căn cứ vào khả năng tài chính của bị can, bị cáo, của người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án quyết định mức tiền, trị giá tài sản cụ thể mà bị can, bị cáo phải đặt để bảo đảm hiệu quả ngăn chặn của biện pháp này.
Đây là biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng đã tiếp thu và đưa vào luật từ năm 1988. Tuy nhiên, vì thiếu các quy định cụ thể nên đã chưa được thực hiện. Điều này một phần do tình hình kinh tế xã hội của ta chưa phù hợp để áp dụng, đồng thời, chưa có những văn bản cụ thể để hướng dẫn thi hành. Do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện được. Một vấn đề khác nữa là khi áp dụng biện
pháp này không ảnh hưởng đến quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhưng cơ quan THTT không áp dụng vì thiếu sự chỉ đạo thống nhất. Khi văn bản này được ban hành chắc chắn sẽ phát huy được tác dụng, hiệu quả trong công tác điều tra xử lý tội phạm của cơ quan THTT.
Như vậy, từ những phân tích trên ta thấy đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm được hiểu như sau: “Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn của TTHS để thay thế biện pháp tạm giam do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngăn ngừa họ có hoạt động cản trở việc giải quyết vụ án”.
1.1.2. Ý nghĩa của đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
Để quản lý xã hội, để điều chỉnh các hành vi lệch chuẩn xã hội, và các mâu thuẫn phát sinh trong xã hội, Nhà nước đã xây dựng và sử dụng pháp luật làm công cụ, một mặt để quản lý Nhà nước, mặt khác, để xử lý đối với các hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”.
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án... nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không để oan người vô tội. Bộ luật góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tôn trọng quy tắc cuộc sống xã hội chủ nghĩa [17, Điều 1].
Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, là biện pháp mang tính chất cưỡng chế Nhà nước, thể hiện tính quyền uy, mềm dẻo trong phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng hình sự. Vai trò của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự càng được phát huy trở thành công cụ để bảo vệ chế độ xã hội. Việc áp dụng đúng đắn biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm thể hiện tính chất thời đại, mềm dẻo trong chính sách tố tụng và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của tố tụng hình sự, góp phần làm giảm các vụ án oan sai, đem lại tinh thần tốt nhất cho người phạm tội, nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố xét xử và thi hành án. Đồng thời áp dụng đúng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sẽ bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân đặc biệt là quyền tự do thân thể. Tránh việc bắt không đúng pháp luật sẽ gây ra nhiều tác hại, làm giảm hiệu quả pháp luật, uy tín của cơ quan Nhà nước, xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của công dân, có thể dẫn đến hàng loạt những sai lầm trong hoạt động tố tụng hình sự tiếp theo. Đó là:
- Áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm phục vụ tốt cho công tác điều tra giải quyết được yêu cầu, mục tiêu đề ra của hoạt động tố tụng hình sự đạt hiệu quả cao. Là thể hiện tính chất đặc biệt cấp bách để kịp thời ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra, không để cho người phạm tội gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Đây là mục tiêu quan trọng của tố tụng hình sự cần đạt được. Việc điều tra, truy tố, xét xử sẽ trở nên vô nghĩa khi người phạm tội trốn tránh được hình phạt của pháp luật.