MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Bản chất của người phạm tội là luôn tìm cách lẩn trốn hòng thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật. Vì thế việc tìm kiếm, bắt giữ người phạm tội bỏ trốn luôn là một yêu cầu khách quan, một nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nếu người phạm tội còn lẩn trốn, chẳng những pháp luật không được thi hành, mà quan trọng hơn các đối tượng này vẫn có thể tiếp tục hoạt động phạm tội và gây ra tội ác cho xã hội. Việc tìm kiếm, bắt giữ lại người có hành vi phạm tội đang lẩn trốn có cơ sở xuất phát từ nguyên tắc: đã phạm tội thì không tránh khỏi bị trừng trị. Về vấn đề này V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt không phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng mà vấn đề cơ bản ở chỗ không một kẻ phạm tội nào không bị trừng trị, không một hành vi phạm tội nào không bị phát hiện ra" [24].
Tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm lẩn trốn nói riêng ở nước ta và nhiều nước trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp. Do những nguyên nhân khác nhau mà mỗi năm trong cả nước có hàng ngàn người phạm tội lẩn trốn phải ra quyết định truy nã (QĐTN) và số đối tượng chưa bắt được cũng còn khá nhiều. Điều này gây ra những khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Tuy nhiên thực tiễn pháp luật về biện pháp ngăn chặn (BPNC) bắt người nói chung và bắt người đang bị truy nã nói riêng vẫn còn những hạn chế, bất cập như các quy định của pháp luật hiện hành về truy nã không đầy đủ, nhiều quy định không còn phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống tội phạm thể hiện như: quy định về đối tượng truy nã, trình tự, thủ tục, phạm vi truy nã, việc áp dụng các BPNC sau khi truy bắt được đối tượng truy nã... dẫn đến chất lượng và hiệu quả của BPNC không đạt được. Trước tình
hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài: "Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý, dưới những góc độ khác nhau, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về BPNC nói chung và biện pháp bắt người nói riêng như: Nguyễn Vạn Nguyên (1995), Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Duy Thuân (1999), Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - Những vấn đề về lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Lê Cảm (2005), "Sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại để bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã", Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Mai Bộ (2006), Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân; Ban chỉ đạo Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm - Bộ Công an (2002), Công tác truy nã - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội...
Có thể bạn quan tâm!
- Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - 1
- Quan Niệm Về Biện Pháp Bắt Người
- Mục Đích, Ý Nghĩa Của Việc Quy Định Và Áp Dụng Biện Pháp Bắt Người Đang Bị Truy Nã
- Đặc Điểm Của Biện Pháp Bắt Người Đang Bị Truy Nã
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
Tuy nhiên qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo, các luận án, các bài báo khoa học cho thấy, hầu hết đó là các công trình nghiên cứu cơ bản về các BPNC nói chung, còn đối với chế định bắt người đang bị truy nã, nhìn một cách tổng quan, chưa được quan tâm một cách đúng mức. Những nghiên cứu về biện pháp bắt người đang bị truy nã chỉ dừng lại ở những công trình nghiên cứu đơn lẻ chuyên ngành của cơ quan Công an là chủ yếu hoặc là một phần nội dung của biện pháp bắt người nói chung. Có thể
nói hiện nay ở Việt Nam chưa triển khai nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về biện pháp bắt người đang bị truy nã dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng. Do đó, nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong thực tiễn áp dụng những quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã chưa được phân tích có hệ thống để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đồng bộ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích pháp luật Việt Nam quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã và thực tiễn áp dụng từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế của việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã và những nguyên nhân của nó.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để có thể đạt được mục đích nêu trên, trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung vào những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề chung dưới góc độ lý luận và pháp lý để làm rõ khái niệm, mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, đặc điểm... của biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam;
+ Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ thực trạng áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã qua đó đưa ra những nhận xét về ưu điểm và những tồn tại của biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam;
+ Tổng hợp kết quả nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh phòng, chống tội phạm;
- Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực tiễn, thống kê... nhờ vậy những vấn đề liên quan tới biện pháp bắt người đang bị truy nã được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật TTHS. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật TTHS, tội phạm học và cán bộ làm công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật...
6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là:
- Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về chế định bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam;
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam hiện hành;
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam; nêu ra những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các giải pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật TTHS về BPNC bắt người đang bị truy nã.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Quan niệm về biện pháp ngăn chặn và biện pháp bắt người
1.1.1.1. Quan niệm về biện pháp ngăn chặn
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là quan điểm cơ bản của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên khi có hành vi đi ngược lại với lợi ích của xã hội, lợi ích của nhà nước, nhà nước ta cũng cho phép áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để hạn chế quyền và lợi ích của chủ thể thực hiện hành vi đó. Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà trái lại nó còn góp phần bảo vệ được lợi ích của cộng đồng, của xã hội, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhằm mục đích ngăn chặn và phòng ngừa việc không thực hiện các nghĩa vụ của những người tham gia TTHS, pháp luật cho phép Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng đối với những người đó các biện pháp cưỡng chế TTHS.
Các biện pháp cưỡng chế TTHS có khác nhau về tính chất và chức năng. Một số biện pháp cưỡng chế TTHS chỉ được áp dụng trong những trường hợp một người thực hiện những vi phạm pháp luật nhất định. Chẳng hạn trong khi tiến hành xét xử, Tòa án có thể áp dụng biện pháp buộc những người vi phạm trật tự phiên tòa rời khỏi phòng xử án hoặc phạt tiền đối với họ. Biện pháp cưỡng chế này là những biện pháp trách nhiệm tố tụng.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, BLTTHS của Nhà nước ta đã quy định hàng loạt các biện pháp cưỡng chế khác nhau nhằm những mục đích tố tụng nhất định. "Biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự bao gồm các biện pháp được luật tố tụng hình sự quy định, do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng nhằm thực hiện những mục đích tố tụng nhất định" [42].
Căn cứ vào mục đích của chúng, có thể chia thành ba nhóm sau:
- Nhóm 1: Gồm những biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi phạm tội bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án như: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm;
- Nhóm 2: Gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập và ghi nhận chứng cứ như: Khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể...;
- Nhóm 3: Gồm những biện pháp bảo đảm thuận lợi cho quá trình tiến hành tố tụng được diễn ra bình thường và thuận lợi như: Kê biên tài sản, áp giải bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lý do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nội quy phiên tòa [41].
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế nêu trên thì BPNC là một chế định pháp lý quan trọng. Toàn bộ quy phạm pháp luật xác định cơ sở, mục đích của các BPNC, các loại BPNC cụ thể, trình tự áp dụng, thay thế và hủy bỏ chúng cũng như những bảo đảm pháp chế trong việc áp dụng các biện pháp này hợp thành một chế định pháp luật TTHS - những BPNC.
Chức năng của chế định pháp luật này được thể hiện trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh khi cần thiết phải hạn chế tự do của bị can, bị cáo nhằm ngăn ngừa khả năng tiếp tục thực hiện tội phạm, trốn tránh việc điều tra, xét xử, cản trở việc xác định sự thật về vụ án hình sự của họ. Áp
dụng các BPNC không thể loại trừ hoàn toàn nhưng có thể hạn chế một cách có hiệu quả khả năng thực hiện các hành vi nói trên của bị can, bị cáo.
BLTTHS dành một chương riêng trong phần Những quy định chung nói về BPNC, chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của nhà nước ta đối với việc sử dụng các biện pháp này trong cuộc đấu tranh chống tội phạm. Nhìn lại công tác lập pháp trong mấy chục năm qua cho thấy, những quy định của pháp luật TTHS về các BPNC luôn có sự thay đổi, phát triển cùng với sự phát triển đi lên của nhà nước và xã hội Việt Nam. Đó là một hiện tượng hợp quy luật. Trong lịch sử phát triển của luật TTHS Việt Nam, nội dung và các loại BPNC có sự thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện.
Vậy thế nào là BPNC trong TTHS? Trong pháp luật thực định chưa có một khái niệm pháp lý về BPNC rõ ràng. Cho nên trong các tài liệu, sách báo Việt Nam các học giả đã có những khái niệm khác nhau về các BPNC.
Theo Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông của Nhà xuất bản "Sách pháp lý" Matxcơva năm 1973 thì:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự do Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên và Tòa án áp dụng đối với bị can (người bị tình nghi) nếu có đủ căn cứ cho rằng bị can trốn tránh việc điều tra, dự thẩm hoặc hoặc trốn tránh Tòa án, cản trở việc xác minh sự thật về vụ án hay sẽ tiếp tục hoạt động phạm tội, cũng như để đảm bảo việc thi hành án [1].
Theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam - Khoa Luật trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn cho rằng:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần bắt trong trường hợp khẩn cấp để kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn những người đó gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn [23].