+ Thông tư liên tịch số 03/TTLN ngày 07/01/1995 của Bộ Nội vụ, TANDTC, VKSNDTC về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và Viện kiểm sát hướng dẫn thực hiện một số quy định về truy nã bị can, bị cáo trong giai đoạn truy tố và xét xử; Thông tư số 03-TT/BNV(C11) ngày 11/4/1997 của Bộ Nội vụ về truy nã người bị phạt tù và bị cáo đang được tại ngoại bỏ trốn. Hai văn bản này là phù hợp với BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên sau khi BLTTHS năm 2003 ra đời thì việc cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải áp dụng hai Thông tư nêu trên là không phù hợp. Việc điều chỉnh cụ thể trong áp dụng BPNC chủ yếu do các văn bản dưới luật và ngành Công an ban hành.
+ BLTTHS năm 2003 từ khi ra đời đến nay chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về chế định truy nã. Trước đây, liên quan đến BLTTHS năm 1988 thì cũng có Thông tư liên ngành số 03 thực hiện một số quy định về truy nã bị can, bị cáo trong giai đoạn truy tố, xét xử nhưng ngay cả Thông tư này cũng không điều chỉnh việc truy nã trong giai đoạn khởi tố, cũng như chưa quy định trách nhiệm của CQĐT trong việc xác minh nơi cư trú của bị can. Để việc truy nã vừa đảm bảo được mục đích của nó là truy bắt người bị truy nã đồng thời đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của họ thì ngoài việc CQĐT cần làm hết trách nhiệm của mình trước khi ra QĐTN, pháp luật cũng cần có những quy phạm pháp luật cụ thể về việc xác minh địa chỉ của bị can trước khi ra QĐTN.
- Về căn cứ truy nã bị can:
Căn cứ thứ nhất là bị can trốn tránh và căn cứ thứ hai là không biết bị can đang ở đâu. Hai căn cứ truy nã bị can này rất khó phân biệt và có những cách hiểu khác nhau. Đối với căn cứ bị can trốn, điều luật không nói rõ bị can trốn lúc nào, do vậy có ý kiến cho rằng việc bỏ trốn có thể xảy ra ngay khi gây án, sau khi bị khởi tố hoặc có quyết định áp dụng BPNC, bỏ trốn sau khi được trả tự do, thay đổi BPNC, bỏ trốn trong khi đang bị tạm giữ, tạm giam, bỏ trốn sau khi đã có quyết định xử lý của cơ quan tiến hành tố tụng (như kết luận điều tra đề nghị truy tố, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ án ra xét
xử...). Còn căn cứ không biết bị can đang ở đâu được hiểu là sau khi xác định được đối tượng gây án, CQĐT đã ra quyết định khởi tố bị can hoặc ra quyết định bắt nhưng không xác định được bị can đang ở đâu để thực hiện quyết định bắt, tống đạt quyết định khởi tố hoặc để tiến hành những hoạt động điều tra cần thiết, mặc dù bị can không bỏ trốn.
Có ý kiến khác lại cho rằng hai căn cứ truy nã phải bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố bị can, vì lúc đó họ mới chính thức là bị can còn truy nã bị cáo thì phải xác định từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vì lúc đó họ mới chính thức là bị cáo. Như vậy, hai căn cứ nêu trên có nhiều cách giải thích khác nhau và thường rất khó phân biệt. CQĐT thường áp dụng căn cứ xác định bị can trốn tránh, còn căn cứ thứ hai hầu như rất ít được áp dụng. Việc trốn tránh của bị can rất tinh vi, có thể họ làm như là người không có dấu hiệu gì là bỏ trốn.
Do vậy, Điều 161 BLTTHS về truy nã bị can thiết nghĩ cần có tiêu chí đặc trưng để phân biệt hai căn cứ này (có thể thông qua văn bản dưới luật). Điều này không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi áp dụng chế định truy nã mà còn có ý nghĩa để xác định đúng căn cứ truy nã bị cáo (vì theo Điều 187 BLTTHS, việc Hội đồng xét xử yêu cầu CQĐT truy nã bị cáo chỉ dựa trên một căn cứ duy nhất là "bị cáo trốn tránh" chứ không có căn cứ "không biết bị cáo đang ở đâu"). Ngoài ra, còn có ý nghĩa trong việc xác định chính xác căn cứ tạm đình chỉ điều tra vì việc phân biệt hai căn cứ truy nã bị can tại đoạn 4, khoản 1 Điều 160 BLTTHS quy định tạm đình chỉ điều tra và ra QĐTN chỉ trên một căn cứ duy nhất là "nếu không biết bị can đang ở đâu" chứ không có căn cứ "bị can đang bỏ trốn".
- Như đã trình bày ở trên, đối với trường hợp bắt người đang bị truy nã thì bất kỳ ai cũng có quyền bắt, tước vũ khí, hung khí và giải ngay người đó đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất... Quy định như vậy là chưa đầy đủ, thực tế cho thấy bắt người đang bị truy nã là công việc hết sức nguy hiểm, người bị truy nã luôn nêu cao ý thức phòng thủ bản thân bằng việc xuất hiện và biến mất rất nhanh, luôn giấu trong người vũ khí, hung khí đề phòng, hành động lén lút với mong muốn trốn tránh trách
nhiệm hình sự, trốn tránh sự truy đuổi thường có những hành động chống trả lại khi bị bắt để nhằm tẩu thoát, có nhiều trường hợp đã sử dụng vũ khí để tấn công người đuổi bắt đã gây thương tích hoặc tước đoạt tính mạng của người đuổi bắt chúng. Muốn bắt được đối tượng trước hết phải vô hiệu hóa được sự chống cự của các đối tượng đó bằng cách tước bỏ vũ khí mà họ cất giấu trong người hoặc đang sử dụng, chặn đứng sự tấn công, chống trả của họ. Thế nhưng để tước vũ khí, hung khí của người phạm tội đặc biệt là của những đối tượng có tiền án, tiền sự, phạm tội nguy hiểm không phải là vấn đề đơn giản. Có những trường hợp muốn bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe của mình, người tiến hành bắt có thể phải sử dụng vũ lực hoặc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự cho người bị bắt ở mức độ cần thiết đủ để bắt họ không bị coi là vi phạm pháp luật và người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó. Có như vậy mới có thể tạo tâm lý an tâm cho người tiến hành bắt đồng thời cũng tránh được tình trạng lạm dụng vũ lực gây thiệt hại cho đối tượng bị bắt một cách trái pháp luật.
Việc quần chúng nhân dân bắt người bị truy nã là bắt người hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Nhưng sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại đó hiện chưa được pháp luật hình sự ghi nhận và bảo vệ. Vậy sự gây thiệt hại đó có được coi là loại trừ tính chất tội phạm hay không? Chính vì vậy việc nghiên cứu sự cần thiết phải ghi nhận chế định này trong pháp luật hình sự thể hiện:
Do chưa được ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành nên hiện nay trong khoa học luật hình sự nước ta vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất pháp lý của chế định sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại để bắt người đang bị truy nã. Vì vậy việc điều chỉnh một cách đầy đủ và chính xác trong Phần chung BLHS không chỉ góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam mà còn đáp ứng kịp thời những nhu cầu cấp bách của thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đòi hỏi phải khẳng định dứt khoát ở mức độ lập pháp các giải thích thống nhất của nhà làm luật đối với vấn đề trách nhiệm hình sự
do việc gây thiệt hại trong khi bắt người đang bị truy nã, nếu sự đánh giá tình huống và hoàn cảnh thực tế cho thấy, việc gây thiệt hại đó được coi là có căn cứ.
Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm của nước ta hiện nay cho thấy, khi xuất hiện những tình huống cấp bách trong các lĩnh vực khác nhau của trật tự pháp luật, để giữ gìn các lợi ích được bảo vệ bằng pháp luật hình sự của con người, của xã hội hay của Nhà nước tránh khỏi sự xâm hại (hoặc đe dọa thực tế xâm hại) từ phía người đang bị truy nã thì việc gây thiệt hại (ở đây bao giờ cũng phải hiểu là thiệt hại về mặt pháp lý hình sự) để bắt người đó đến cơ quan chính quyền không chỉ là hành vi có ích cho xã hội, mà còn là sự minh chứng về ý thức pháp luật và tính tích cực đối với trách nhiệm công dân của người bắt giữ, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, thiết tưởng xã hội và Nhà nước ta lại càng phải khuyến khích và ủng hộ những hành vi như vậy.
Việc quy định rõ ràng về mặt lập pháp chế định này với tính chất là những giải thích chính thức của nhà làm luật không chỉ góp phần loại trừ xu hướng tùy tiện sử dụng bạo lực hoặc vũ khí (hay vì động cơ cá nhân nào đó) dẫn đến sự xâm phạm nghiêm trọng sức khỏe, tính mạng của người khác trong thực tiễn bảo vệ pháp luật, mà còn có tác dụng để hỗ trợ cho việc giải quyết một cách rõ ràng và dứt khoát vấn đề trách nhiệm hình sự của người bắt trong trường hợp việc gây thiệt hại là bất đắc dĩ (có căn cứ) và không phải bất đắc dĩ (không có căn cứ) [10, tr. 578-589].
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy sự cần thiết phải ghi nhận chế định này trong pháp luật hình sự để khuyến khích động viên quần chúng nhân dân tham gia bắt người bị truy nã (mặc dù trong quá trình bắt có thể gây ra một số thiệt hại) và có cơ chế bảo vệ họ khi họ làm được một việc có ích cho xã hội trong công tác đấu tranh chống tội phạm.
- Việc áp dụng BPNC bắt người bị truy nã là người chưa thành niên (NCTN):
Điều 303 BLTTHS quy định:
1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng [32].
Trong thực tiễn, để đấu tranh xử lý tội phạm triệt để, tránh tình trạng người thực hiện hành vi phạm tội sống ngoài vòng pháp luật, cơ quan tiến hành tố tụng vẫn thực hiện việc truy nã bị can là NCTN như những bị can khác. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thấy có sự mâu thuẫn trong quy định của pháp luật về việc truy nã bị can là NCTN và việc truy nã bị can thành niên như thực tiễn hiện nay là chưa thực sự thỏa đáng và tạo nên tính không khả thi của luật. Về vấn đề này, có 2 luồng ý kiến khác nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu bị can, bị cáo là NCTN trốn tránh hoặc không biết đang ở đâu thì phải truy nã theo đúng quy định của BLTTHS hiện hành trong mọi loại tội phạm. Mặt khác, việc BLTTHS quy định bất kỳ ai cũng có quyền bắt người đang bị truy nã thì họ không thể biết được các tội phạm mà người bị bắt là tội phạm nào (tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Nếu phải có đủ căn cứ như quy định tại Điều 303 BLTTHS thì quy định về việc bắt NCTN đang bị truy nã sẽ mất đi ý nghĩa kịp thời phát hiện và xử lý tội phạm. Việc nghiên cứu sửa đổi quy định của BLTTHS về việc bắt NCTN đang bị truy nã theo hướng bỏ quy định về loại tội mà người bị bắt thực hiện điều này hoàn toàn phù hợp với
thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian qua. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện pháp bắt NCTN đang bị truy nã trong thời gian vừa qua cho thấy, tất cả các trường hợp bắt được khi có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 82 BLTTHS mà không cần phải có quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 303. Và tất cả đều không bị coi là vi phạm thủ tục TTHS. Cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân nhận người bị bắt đều lập biên bản và giải người bị bắt đến CQĐT có thẩm quyền. Tuy nhiên ý kiến này giải quyết được mâu thuẫn của luật, nhưng lại không đáp ứng được chính sách hình sự đối với NCTN.
Ý kiến thứ hai cho rằng cần sửa quy định truy nã bị can là NCTN theo hướng được phép truy nã đối với bị can là NCTN từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi (vì họ phạm vào loại tội rất nghiêm trọng do cố ý và loại tội đặc biệt nghiêm trọng), không được phép truy nã đối với bị can NCTN từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nếu họ phạm vào loại tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng do vô ý. Mặt khác, cũng cần điều chỉnh Điều 303 BLTTHS theo hướng không bắt, tạm giữ, tạm giam. Ý kiến này cũng giải quyết được mâu thuẫn của luật nhưng chưa đáp ứng triệt để chính sách hình sự đối với NCTN cũng như yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, vì NCTN phạm vào loại tội này chiếm tỷ trọng rất cao trong cơ cấu tội phạm do NCTN thực hiện. Thực tiễn cũng cho thấy việc truy nã chủ yếu đối với NCTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm vào loại tội ít nghiêm trọng (theo nghiên cứu của Bộ Tư pháp về loại tội do NCTN thực hiện từ năm 1982 đến năm 1996 trên toàn quốc thì tổng số vụ án có NCTN tham gia là 10.987 vụ, trong đó số vụ ít nghiêm trọng là 9.032 vụ, chiếm tỷ lệ 83%) [52].
Tôi đồng tình với ý kiến thứ nhất, vì theo hướng này trước mắt trong giai đoạn hiện nay mặc dù chưa thực sự đáp ứng được việc bảo vệ quyền của NCTN trong việc hạn chế biện pháp xâm phạm tự do thân thể của họ nhưng hướng này đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với NCTN.
2.3.1.2. Tồn tại trong thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã
- Một là: Trong công tác quản lý còn có nhiều sơ hở để người phạm tội bỏ trốn
Tình hình phạm pháp hình sự trong thời gian qua diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng. Các vụ tội phạm xảy ra với phương thức thủ đoạn mới, tinh vi, xảo quyệt, hình thức phạm tội đa dạng, tính chất tội phạm nghiêm trọng. Mặc dù Công an các đơn vị, địa phương có nhiều cố gắng trong việc hạn chế tăng đối tượng truy nã, nhưng số đối tượng truy nã hàng năm vẫn phát sinh nhiều. Mặt khác kết quả điều tra khám phá án của các lực lượng Công an đạt tỷ lệ chưa cao, số vụ án tạm đình chỉ do đối tượng bỏ trốn phải ra QĐTN chiếm tỷ lệ đáng kể dẫn đến số đối tượng truy nã phát sinh cao.
Tội phạm sau khi gây án luôn tìm mọi cách để che giấu nhân thân và hành vi phạm tội, trốn tránh sự điều tra, xử lý của các cơ quan chức năng cũng như việc bắt giữ của quần chúng nhân dân. Đây là một trong những thủ đoạn đối phó phổ biến của tội phạm hiện nay.
Bảng 2.4: Số liệu các trường hợp trốn
Số đối tượng | Tỷ lệ % | |
Trốn sau khi gây án | 34.135 | 85,92% |
Trốn trại giam | 154 | 0,39% |
Trốn trại tạm giam, nhà tạm giữ | 488 | 1,23% |
Trốn trong khi dẫn giải và đi chữa bệnh | 123 | 0,31% |
Trốn do thay đổi BPNC | 4.830 | 12,16% |
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Áp Dụng Biện Pháp Bắt Người Đang Bị Truy
- Số Liệu Về Đối Tượng Truy Nã Phát Sinh Theo Từng Năm
- Những Tồn Tại, Hạn Chế Trong Quá Trình Áp Dụng Biện Pháp Bắt Người Đang Bị Truy Nã Và Nguyên Nhân
- Số Liệu Các Trường Hợp Trốn Do Thay Đổi Biện Pháp Ngăn Chặn
- Nhu Cầu Hoàn Thiện Các Quy Định Của Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Hiện Hành Về Bắt Người Đang Bị Truy Nã Và Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng
- Những Kiến Nghị Tiếp Tục Hoàn Thiện Các Quy Định Của Pháp Luật
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
Nguồn: [8].
Qua bảng số liệu trên cho thấy số đối tượng sau khi gây án bỏ trốn chiếm tỷ lệ cao nhất: 85,92%. Với số lượng tội phạm trốn sau khi gây án như vậy, rõ ràng hàng năm số vụ án phạm tội rơi vào tình trạng điều tra kéo dài, thậm
chí bế tắc do đối tượng bỏ trốn xảy ra đáng kể. Đây cũng là một trong những nguyên nhân đã góp phần hạn chế kết quả điều tra, khám phá tội phạm hiện nay.
Sở dĩ có tình trạng tội phạm lẩn trốn sau khi gây án như trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề tất yếu về phía chủ quan của đối tượng, nhất là những đối tượng cố ý phạm tội hoặc phạm tội nghiêm trọng, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là sơ hở, thiếu sót trong hoạt động đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan thi hành pháp luật. Những sơ hở, thiếu sót này thường thể hiện trong các hoạt động cụ thể như chưa đủ tài liệu để chứng minh cần áp dụng BPNC hoặc các cơ quan có thẩm quyền quyết định phê chuẩn áp dụng PBNC còn chưa có sự thống nhất nên đã quyết định cho bị can, bị cáo tại ngoại chưa đúng với tính chất đối tượng, không đảm bảo yếu tố bất ngờ khi bắt, khám xét đối tượng. Qua kết quả điều tra cho thấy, tội phạm lẩn trốn do phát hiện tội phạm chậm là 47,7% (104/218 ý kiến); áp dụng các BPNC (bắt) chưa đúng là 44,03% (96/218 ý kiến); đối tượng bị đánh động là 23,39% (51/218 ý kiến); tỷ lệ điều tra thấp 44,49% (97/218 ý kiến) [2].
Tình trạng tội phạm gây án bỏ trốn đặt ra yêu cầu cần thiết phải tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trong tổ chức phát hiện, điều tra tội phạm, nhất là khi vụ án mới xảy ra. Trong hoạt động chức năng của mình, mỗi cơ quan, đơn vị đặc biệt là CQĐT cần phải chủ động khắc phục những sơ hở, thiếu sót, quản lý, giám sát chặt chẽ đối tượng khi chưa có lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam không để bọn tội phạm có điều kiện lẩn trốn.
Trong những năm qua nhìn chung số lượng đối tượng giam giữ trong các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ liên tục tăng lên đáng kể. Trong khi đó số đối tượng trốn trại chiếm 0,39% có xu hướng giảm đi rõ rệt, nhất là sau khi ban hành Pháp lệnh thi hành án phạt tù và quyết định chuyển giao một số trại giam do Công an địa phương quản lý cho Cục Quản lý trại giam thuộc cơ quan Bộ Công an nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác quản