tiếp cận khác nhau và đã có nhiều định nghĩa về gia đình được đưa ra. Song cho đến nay gia đình là gì vẫn đang còn là vấn đề gây tranh luận và được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo nhà xã hội học Tương Lai, thuật ngữ này vẫn là một thuật ngữ được định nghĩa lỏng lẻo nhất trong từ vựng của các nhà xã hội học [44, tr 33].
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước", F.Enggels đã đề cập đến khái niệm gia đình của Morgan: “Gia đình là một yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng yên tại chỗ mà nó chuyển từ hình thức thấp lên hình thức cao khi xã hội phát triển từ hình thức thấp lên hình thức cao, khi xã hội phát triển từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao”. Định nghĩa này nhấn mạnh đến yếu tố “động” của gia đình, sự biến đổi của gia đình gắn liền với sự vận động biến đổi của xã hội. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mark đã đưa ra định nghĩa: “Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [28, tr 41]. Với quan niệm này, gia đình được nhấn mạnh trên các khía cạnh quan hệ trong gia đình đó là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.
Ở Việt Nam, khi bàn tới khái niệm gia đình, các tác giả cũng đưa ra các định nghĩa khác nhau. Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Gia đình là tập hợp những người có quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống sống chung trong cùng một nhà” [3, tr 719]. Tác giả Ngô Công Hoàn trong cuốn “Tâm lý học gia đình” đưa ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội, có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung giá trị vật chất, tinh thần, ổn định trong các thời điểm lịch sử nhất định” [24, tr 9]. Tác giả Lê Ngọc Văn trong chuyên khảo “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam” định nghĩa :“Gia đình là một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc quan hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung sống, có ngân sách chung” [16, tr 38]
Qua các khái niệm trên, có thể thấy rằng sẽ không có một định nghĩa duy nhất cho gia đình trong mọi nền văn hóa, mọi chế độ xã hội và mọi thời kỳ lịch sử khác nhau. Mặc dù còn có các tiêu chí riêng để nhận diện gia đình nhưng cũng có những tiêu chí chung cơ bản đó là: Là một nhóm người (có từ hai người trở lên); có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hay nghĩa dưỡng; cùng chung sống.
Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất sử dụng định nghĩa mang tính pháp lý về gia đình ở Việt Nam được ghi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
18
2008 như sau: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định”.
Hộ gia đình
Thông cáo về gia đình của Liên Hợp Quốc cho rằng: “Hộ là những người cùng chung sống dưới một mái nhà, có chung ngân quỹ”. Theo quan niệm này, hộ gia đình có thể là một người (độc thân), có thể là 2,3 …người cùng giới và khác giới sống chung với nhau.
Năm 1989, Tổng cục Thống kê đưa ra khái niệm: “Hộ gồm những người có quan hệ hôn nhân hoặc ruột thịt hoặc nuôi dưỡng, có quỹ thu chi chung và cùng chung sống lâu dài”. Mỗi hộ gia đình có sổ đăng ký nhân khẩu gồm chủ hộ và các thành viên quan hệ với chủ hộ.
Có thể bạn quan tâm!
- Biến đổi gia đình người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái - 1
- Biến đổi gia đình người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái - 2
- Đị A Bà N Nghi Ên C Ứu: Xã Tân Hương , Huy Ện Y Ên Bì Nh, T Ỉ Nh Y Ên Bái
- Phân Bố Người Dao Quần Trắng Ở Xã Tân Hương Theo Đơn Vị Hành Chính
- Tuổi Kết Hôn Lần Đầu Của Người Dao Quần Trắng (Trước 1986)
Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.
Như vậy, gia đình và hộ gia đình là hai khái niệm khác nhau. Một gia đình có thể là một hộ nhưng có thể có hơn một hộ.
Ở Việt Nam, khi nói đến gia đình, thường được hiểu đó là hộ và như vậy nhiều khi khái niệm gia đình được hiểu đó là khái niệm hộ.
1.2.1.2. Biến đổi gia đình
Gia đình là một thiết chế xã hội và đương nhiên cũng là một phần của xã hội. Do đó, biến đổi gia đình cũng là một phần của biến đổi xã hội. Để hiểu được biến đổi gia đình cần hiểu biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội có thể được hiểu là một quá trình chuyển đổi từ hình thái xã hội này sang một hình thái xã hội khác trên một trục thời gian. Hay cụ thể hơn là, ở thời điểm t1, có trạng thái x1, thời điểm t2 có trạng thái x2 …và đến thời điểm tn có trạng thái xn.. Từ biến đổi xã hội, có thể suy ra biến đổi gia đình, đó là một quá trình chuyển biến của gia đình từ trạng thái này sang trạng thái khác trên một trục thời gian. Trong luận văn này, chúng tôi xem xét sự biến đổi của trạng thái gia đình trên các phương diện cấu trúc, chức năng, mối quan hệ và một số phong tục, nghi lễ trong chu kỳ đời người.
1.2.1.3. Nghi lễ
Theo từ điển tiếng Việt, “Nghi lễ là nghi thức và trình tự tiến hành của một buổi lễ” [44, tr 866]. Còn theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, nghi lễ là “những hoạt động mang tính truyền thống được thực hiện tại những thời điểm quan trọng trong đời sống và trong hoạt động sản xuất của con người. Phân biệt hai loại nghi lễ chính: Một loại gắn với chu kì đời sống con người (từ sinh đẻ, cưới xin đến ma chay) gọi là nghi lễ gia đình; một loại liên quan đến sản xuất
nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác gọi là nghi lễ theo lịch”3. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ để cập đến một số nghi lễ gắn với chu kì của con người trong gia đình mà như khái niệm trên gọi là nghi lễ gia đình.
1.2.2. Một số hướng tiếp cận lý thuyết
1.2.2.1. Tiếp cận lý luận Mác xít
Luận văn áp dụng nguyên lý và nguyên tắc phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, cụ thể là:
- Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan. Nguyên tắc này chỉ ra rằng, cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng như chúng đang tồn tại thực tế, các kết luận phải xuất phát từ thực tế, không phán đoán chủ quan; để có hiểu biết đúng đắn về sự vật, hiện tượng, phải hướng tới cái bản chất, không hướng tới cái ngẫu nhiên, không ổn định.
- Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự phát triển. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình nảy sinh, vận động (biến đổi) và phát triển; đều tồn tại trong một không gian và thời gian xác định. Khi nghiên cứu, cần nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong những giai đọan cụ thể và trong toàn bộ tiến trình phát triển; cần chú ý đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể làm nảy sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực khách quan và chủ quan. Có như vậy sẽ giúp ta thấy được sự vận động, biến đổi cũng như lý giải được quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
- Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể toàn vẹn. Khi xem xét sự vật, hiện tượng cần phải đặt trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Đồng thời, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
Vận dụng các nguyên lý này vào nghiên cứu biến đổi gia đình của người Dao Quần Trắng, chúng tôi quan niệm gia đình là một thiết chế xã hội có mối liện hệ qua lại với các thiết chế xã hội khác trong chỉnh thể xã hội. Gia đình tồn tại và biến đổi trong những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể dưới sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan.
1.2.2.2. Tiếp cận theo lý thuyết chức năng (hay chức năng – cấu trúc)
Được khởi xướng từ G. Spencer và E. Durkheim và sau đó được phát triển và hoàn thiện bởi các học giả tiêu biểu như Malinowski, Radcliffe – Brown và Talcott Parsons. Đây là lý thuyết được ứng dụng nhiều trong các nghiên cứu xã
3 http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn
hội học, dân tộc học và nhân học. Những người sáng tạo và phát triển lý thuyết này đều coi lý thuyết chức năng - cấu trúc như một công cụ quan trọng trong việc tiếp cận nghiên cứu văn hóa và xã hội. Mỗi đại diện của lý thuyết này có những kiến giải riêng, nhưng về cơ bản đều thống nhất ở những luận điểm sau:
- Xã hội tồn tại như một hệ thống, trong đó gồm nhiều yếu tố khác nhau có quan hệ với nhau tạo thành cấu trúc của hệ thống. Mỗi yếu tố của hệ thống lại có thể trở thành một hệ thống con và dưới hệ thống con lại có các hệ thống nhỏ hơn nữa.
- Giữa các hệ thống có sự tác động qua lại lẫn nhau và liên hệ mật thiết với môi trường. Tương tự, giữa các yếu tố của hệ thống cũng có liên hệ và tác động như vậy.
- Mỗi hệ thống, cũng như mỗi bộ phận của hệ thống đều đảm bảo một hay nhiều chức năng để duy trì sự thống nhất của hệ thống. Khi chức năng hoạt động bình thường thì hệ thống vận hành ổn định, bền vững và ngược lại, khi các chức năng này bị rối loạn sẽ dẫn tới sự bất ổn định của cấu trúc tổng thể, thậm chí có thể phá vỡ cấu trúc tổng thể.
Tiếp cận lý thuyết chức năng trong nghiên cứu đề tài “Gia đình người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái”, chúng tôi quan niệm: Thứ nhất, gia đình người Dao là một bộ phận trong hệ thống xã hội. Đến lượt mình, gia đình người Dao lại là một hệ thống gồm nhiều yếu tố như cấu trúc, chức năng, các mối quan hệ…và sự phân cấp bên trong của các yếu tố này lại còn các yếu tố nhỏ hơn nữa; Thứ hai, với tư cách là một bộ phận của hệ thống xã hội, gia đình đảm nhiệm một số chức năng trong hệ thống xã hội của người Dao Quần Trắng vừa chịu sự tác động của hệ thống xã hội, vừa có tác động trở lại đến đời sống xã hội. Luận điểm này giúp chúng tôi đưa ra những câu hỏi mang tính định hướng như chức năng của gia đình người Dao Quần Trắng là gì? Chức năng này có sự biến đổi không? Mối quan hệ giữa chức năng của gia đình với các yếu tố xã hội khác như thế nào? Nếu có thì điều gì dẫn đến sự biến đổi đó? …
Như vậy, lý thuyết chức năng giúp chúng tôi từng bước tiếp cận với đối tượng nghiên cứu ở các cấp độ ngày càng cụ thể hơn và cho phép giải thích được các hiện tượng biến đổi của gia đình. Bên cạnh đó, lý thuyết chức năng còn coi xã hội như một hệ thống mang tính thống nhất và ổn định qua thời gian, qua đó giúp cho việc nhận dạng xã hội trong sự vận động cân bằng với tất cả các yếu tố cấu thành nên nó.
1.2.3.3. Tiếp cận lý thuyết biến đổi văn hóa
Biến đổi văn hóa (theo nghĩa rộng bao gồm cả biến đổi xã hội) là một quá trình diễn ra trong tất cả các xã hội và là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng của nhân học. Liên quan đến biến đổi văn hóa, có nhiều lý thuyết giải thích về vấn đề này như giải thích sự biến đổi văn hóa theo quá trình tiến hóa (theo thời gian); giải thích biến đổi văn hóa theo “tán xạ” hay phát tán văn hóa (theo không gian); giải thích biến đổi văn hóa theo đặc thù lịch sử; giải thích biến đổi văn hóa theo chức năng; giải thích biến đổi văn hóa theo nhân học tâm lý…
Trong nhiều lý thuyết giải thích về sự biến đổi văn hóa, chúng tôi đặc biệt chú ý đến lý thuyết tiếp biến văn hóa.
Tiếp biến văn hóa dùng để chỉ sự tiếp xúc giữa các hệ thống văn hóa với nhau dẫn đến sự biến đổi, hội nhập một số yếu tố văn hóa lẫn nhau giữa các hệ thống văn hóa đó. Sự tiếp xúc này làm tăng đặc tính của nền văn hóa này trong nền văn hóa kia. Tiếp biến văn hóa gồm nhiều quá trình khác nhau như truyền bá, thích nghi, phản ứng lại…và “tan rã văn hóa”.
Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội, của văn hóa, gắn bó với tiến hóa xã hội và cũng gắn bó với sự phát triển của văn hóa. Giao lưu và tiếp biến văn hóa vừa là kết quả của sự trao đổi văn hóa, vừa là chính bản thân của sự trao đổi ấy, do đó sự giao lưu tiếp biến văn hóa có một tầm quan trọng trong lịch sử nhân lọai.
Tiếp biến văn hóa là quy luật tồn tại và phát triển của mọi nền văn hóa và mọi xã hội từ xưa đến nay. Xét về thực chất, tiếp biến văn hóa chính là sự tác động qua lại biện chứng giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh của quá trình phát triển. Trong đó, các yếu tố nội sinh, mà trung tâm là con người giữ vai trò chủ thể có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng mối quan hệ của chúng với các yếu tố ngoại sinh.
Lý thuyết tiếp biến văn hóa được vận dụng trong luận văn nhằm lý giải sự biến đổi của các giá trị văn hóa trong gia đình như các nghi lễ, các quan niệm, những nhận thức mới về xã hội.
1.2.3.4. Tiếp cận từ góc độ lịch sử - so sánh
Đây là cách tiếp cận xem xét sự vật, hiện tượng diễn ra theo một quá trình, trong đó có các giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong từng giai đoạn lịch sử, các sự vật, hiện tượng tồn tại dưới những trạng thái khác nhau. Nếu đem so sánh các trạng thái khác nhau này chúng ta sẽ thấy được sự biến đổi của sự vật, hiện tượng từ giai đoạn này sang giai đoạn khác.
Vận dụng cách tiếp cận từ góc độ lịch sử - so sánh vào trong nghiên cứu
này sẽ cho ta thấy được sự biến đổi của gia đình diễn ra trong những quá trình kinh tế - xã hội ở những giai đoạn lịch sử khác nhau (ở đây chủ yếu là từ trước và sau thời điểm Đổi mới, tính từ năm 1986).
Bước sang thời kỳ Đổi mới, thời kỳ có tính bước ngoặt trong lịch sử Việt Nam với đặc điểm của thời kỳ này là đất nước chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong giai đoạn lịch sử này, nổi lên hai sự kiện chính đó là thực hiện khoán 10 (Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988) và Luật đất đai mới năm 1993. Cùng với hai sự kiện trên, từ năm 1986 đến nay Việt Nam thực hiện quá trình CNH, HĐH đất nước và mở cửa hội nhập mạnh mẽ với khu vực và quốc tế. Những sự kiện trên tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến những biến đổi xã hội ở Việt Nam trong đó có biến đổi về gia đình.
Ở hai giai đoạn lịch sử đất nước - trước và sau Đổi mới, có sự khác nhau không chỉ ở phương diện kinh tế mà còn cả ở phương diện chính trị, xã hội và văn hóa. Sự khác biệt này tác động đến gia đình trên tất cả các phương diện. So sánh những đặc trưng của gia đình trong hai giai đọan này sẽ thấy được sự biến đổi của gia đình.
Vậy, trong các lý thuyết vừa trình bày trên đây, nên chọn lý thuyết hay khía cạnh nào của các lý thuyết để áp dụng vào đề tài nghiên cứu? Thực tế cho thấy, trong khoa học xã hội, không có một khung lý thuyết nào có thể lý giải được mọi tình huống hay hiện tượng trong đời sống xã hội vốn rất phức tạp và bị chi phối bởi những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Mỗi lý thuyết hay mô hình lý luận soi rọi ánh sáng vào một khía cạnh nhất định trong đời sống xã hội. Thật sai lầm khi muốn áp dụng một mô hình lý luận duy nhất trong toàn bộ đời sống xã hội ở mọi nơi trên hành tinh và mọi lúc trong quá trình lịch sử. Vì vậy, luận văn này đã chắt lọc một số luận điểm của các lý thuyết kể trên ứng dụng vào nghiên cứu biến đổi gia đình ở người Dao Quần Trắng.
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này tiếp cận vấn đề từ cơ sở nhân học văn hóa; trong đó, phân tích định tính được đặc biệt nhấn mạnh. Tuy nhiên, sự kết hợp và bổ sung các nguồn thông tin định tính và định lượng cũng như các tư liệu lịch sử được lưu trữ ở các cơ sở nhà nước và người dân.
Chúng tôi bắt đầu bằng việc tiến hành thu thập và đánh giá thông tin hiện có liên quan đến đề tài. Những nguồn tài liệu này đã mang lại hiểu biết có hệ thống về gia đình và biến đổi gia đình trong bối cảnh xã hội của địa phương và cả nước. Về thu thập nguồn tài liệu thứ cấp, để nhìn nhận một cách khái quát, tổng thể, chúng tôi đã tiến hành thu thập các loại báo cáo, quyết định, chỉ thị, tài
liệu thống kê có liên quan đến đề tài ở xã Tân Hương, ở huyện Yên Bình và ở tỉnh Yên Bái.
Trong quá trình bắt tay vào nghiên cứu, tôi đã sử dụng phương pháp chuyên gia tham khảo ý kiến của các chuyên gia và những người có kinh nghiệm nghiên cứu chuyên sâu về chủ đề này trong giới chuyên môn đặc biệt là của các nhà dân tộc học. Ngoài ra, trải nghiệm cuộc sống và các câu chuyện đời sống của người dân và những cán bộ đã từng công tác tại địa phương trong khoảng thời gian trước và sau Đổi mới để từ đó xác định những trọng tâm nghiên cứu.
Về nguồn tài liệu sơ cấp, phương pháp điền dã dân tộc học được xem là phương pháp nghiên cứu chủ yếu để thu thập thông tin và phân tích vấn đề của luận văn. Phương pháp này bao gồm các thao tác cơ bản như thu thập các tài liệu văn bản và thống kê kinh tế - xã hội có liên quan đến đề tài nghiên cứu, quan sát tham gia, phỏng vấn sâu các đối tượng nghiên cứu, phỏng vấn bằng bảng hỏi. Tôi đã thực hiện quan sát tham gia tại các điểm nghiên cứu sâu ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, trong các bản của người Dao Quần Trắng để trực tiếp tìm hiểu về gia đình của đồng bào từ đời sống kinh tế xã hội, môi trường sinh thái, con người, hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân. Tôi đã chia nghiên cứu điền dã thành nhiều đợt trong năm nhằm thu thập thông tin định lượng và định tính để làm rò các giả thiết nghiên cứu.
Về thông tin định tính, tôi đã tập trung trò chuyện với người dân địa phương, ghi chép và phân tích các câu chuyện đời sống gia đình của người dân, những suy nghĩ và cảm nhận của họ về gia đình trước và sau khi Đổi mới đất nước, sự thay đổi trong sinh kế, đời sống và nghi lễ.
Ngoài ra, tôi đã thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu các đối tượng đa dạng của cộng đồng, từ già làng, trưởng bản, chủ hộ khá giả và người nghèo đến thanh niên, phụ nữ và cán bộ nghỉ hưu. Nội dung các cuộc phỏng vấn tập trung vào các vấn đề lịch sử và đời sống gia đình trước và sau Đổi mới, tình hình sản xuất và mức sống, những đánh giá của người dân về đổi thay của gia đình và thôn bản.
Chúng tôi cũng tiến hành trao đổi với cán bộ chính quyền xã, cán bộ làm công tác văn hoá trên địa bàn để tìm hiểu về tình hình gia đình của người Dao Quần Trắng cùng với gia đình các dân tộc khác trong xã. Qua đó, xem xét các đánh giá của họ về những vấn đề: chính sách, đặc điểm biến đổi gia đình hiện nay so với truyền thống.
Để thu thập thông tin định lượng, chúng tôi tiến hành điều tra xã hội học,
sử dụng một bảng hỏi chi tiết về gia đình và biến đổi gia đình đối với các chủ hộ và thành viên, mỗi hộ một lần tại 50 hộ gia đình khác nhau ở 3 điểm nghiên cứu sâu. Các thông tin thu được liên quan đến các vấn đề lịch sử kinh tế hộ gia đình, dân số, kinh tế xã hội, giáo dục… Từ đó, kết hợp với các số liệu thống kê và báo cáo điều tra từ các nguồn có sẵn, chúng tôi phân tích các số liệu để tìm ra xu hướng, đặc điểm, bản chất của vấn đề thể hiện dưới dạng các con số và biểu đồ.
Ngoài ra, phương pháp kế thừa được luận văn sử dụng như trong phần lịch sử vấn đề đã trình bày, có một số công trình đề cập đến nội dung hay một phần nội dung của vấn đề chúng tôi nghiên cứu. Qua những nguồn tư liệu này, chúng tôi kế thừa được một số kết quả đồng thời cũng đem lại cho chúng tôi một cái nhìn mang tính khái quát.
Tiểu kết chương 1
Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam là mảng đề tài rộng lớn và có sức hấp dẫn nên đã thu hút được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Biến đổi gia đình không chỉ là đối tượng quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà làm chính sách mà còn của toàn xã hội. Tuy nhiên, các nghiên cứu về biến đổi gia đình ở Việt Nam chủ yếu tập chung vào người Việt (Kinh) ở khu vực đồng bằng và đô thị. Có rất ít các nghiên cứu về biến đổi gia đình các dân tộc thiểu số đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về biến đổi gia đình của người Dao Quần Trắng.
Khi tiến hành nghiên cứu biến đổi gia đình người Dao Quần Trắng, chúng tôi đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nhìn nhận, phân tích đánh giá các vấn đề một cách khoa học và khách quan. Đây cũng là phương pháp luận để vận dụng các phương pháp cụ thể trong quá trình nghiên cứu, như chọn mẫu nghiên cứu, thu thập thông tin, số liệu trong hệ thống phương pháp nghiên cứu chuyên ngành dân tộc học/nhân học.
Luận văn cũng lựa chọn tiếp cận của lý thuyết chức năng, lý thuyết tiếp biến văn hóa và tiếp cận từ góc độ lịch sử - so sánh. Tuy nhiên, chúng tôi cũng chỉ chắt lọc một số luận điểm của từng lý thuyết để vận dụng cho phù hợp vào từng khía cạnh nghiên cứu.
Ngoài ra, chúng tôi cũng đề cập đến một số khái niệm cơ bản có liên quan đến gia đình và biến đổi gia đình để thống nhất về mặt thuật ngữ đã được sử dụng trong luận văn này.