Một Số Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Bảo Vệ Quyền Shtt Đối Với Nhãn Hiệu Hàng Hoá Tại Biên Giới Việt Nam

chuyển phát nhanh...). Các loại hàng hoá vi phạm phổ biến là hàng tiêu dùng, mỹ phẩm, thực phẩm, đồ điện tử, thuốc tân dược và thiết bị y tế, quần áo, giày dép, đồ dùng thể thao, rượu các loại, phụ tùng ôtô – xe máy. Các hàng hoá mang nhãn hiệu nổi tiếng được đông đảo người tiêu dùng ưa chuộng.

Các đối tượng vi phạm là các cá nhân NK hàng hoá bằng hình thức phi mậu dịch, quà biếu, quà tặng, bưu phẩm, bưu kiện và các doanh nghiệp XNK phân luồng xanh miễn kiểm tra thực tế hàng hoá, các công ty nước ngoài tại các khu công nghiệp, khu chế xuất sản xuất hàng hoá để XK, các doanh nghiệp gia công cho thương nhân nước ngoài. Các Công ty đã bị xử lý về hành vi khai báo sai tên hàng, xuất xứ; doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo các loại hình tạm nhập – tái xuất, XNK tại khu thương mại, khu vực kinh doanh cửa hàng miễn thuế.

Phương thức, thủ đoạn chủ yếu các đối tượng vi phạm sử dụng là lợi dụng phân luồng xanh miễn kiểm tra của Chi cục Hải quan để đi qua cửa khẩu chính và thuê người dân ở khu vực biên giới vận chuyển hàng hoá vi phạm qua các lối mòn sau đó tập kết và sử dụng phương tiện vận chuyển vào nội địa để tiêu thụ, thành lập các Công ty trong khu công nghiệp và khu chế xuất sản xuất hàng hoá giả mạo nhãn hiệu sau đó XK ra nước ngoài. Đồng thời, các đối tượng đã lợi dụng các quy định của pháp luật về quy tắc xuất xứ của hàng hoá mà NK hàng hoá dưới dạng linh kiện về Việt Nam sau đó thực hiện một hoặc một số công đoạn đơn giản cuối cùng như lắp ráp, đóng gói, in bao bì và gắn nhãn hàng hoá để được hưởng xuất xứ Việt Nam. Các lô hàng NK xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu có giá trị lớn thường được vận chuyển theo tuyến đường phức tạp cả trên đường biển và đường bộ. Hàng hoá vi phạm khi NK từ nước ngoài về Việt Nam thường được trộn lẫn với hàng thật trong cùng một container để trốn tránh sự kiểm soát của cơ quan Hải quan.

Các mặt hàng là hàng giả, hàng vi phạm SHTT thường là hàng hoá kém chất lượng, có sai phạm về nhãn mác. Khi làm thủ tục Hải quan, người vi phạm thường khai báo hàng hoá không có nhãn mác, không khai báo nhãn hiệu hàng

hoá, khai báo sai xuất xứ, hoặc khai báo trị giá tính thuế thấp hơn so với hàng thật. Hàng hoá có nghi ngờ không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng được NK từ nước ngoài, hàng hoá NK từ Trung Quốc giả xuất xứ Việt Nam.‌

Với xu hướng hàng hóa xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu (hàng nhái) và hàng hóa giả mạo nhãn hiệu tại biên giới ngày càng diễn biến phức tạp, đa dạng cả về chủng loại hàng hoá và phương thức thủ đoạn, đòi hỏi ngành Hải quan phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới.

3.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới Việt Nam

3.4.1. Hoàn thiện khung pháp lý

Để đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam trong việc thực hiện các điều ước quốc tế liên quan và đáp ứng yêu cầu thực tiễn hoạt động nghiệp vụ của cơ quan Hải quan trong thời gian tới cần hoàn thiện để xây dựng hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền SHTT tại biên giới theo hướng thống nhất, rõ ràng, minh bạch; tăng cường chế tài xử lý hành chính, hình sự đối với các hành vi XNK hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, hàng xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu. Thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật, khắc phục sự chồng chéo giữa các văn bản, đảm bảo tính thống nhất, khả thi cao. Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan thực thi, chủ sở hữu quyền và các cá nhân, tổ chức liên quan trong việc phối hợp đấu tranh và xử lý các hành vi xâm phạm quyền, mở rộng phạm vi các hành vi xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu bị xử lý để đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa cao. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, các chủ sở hữu quyền cùng hợp tác, tham gia, hỗ trợ các lực lượng chức năng trên mặt trận đấu tranh chống các hành vi vi phạm về nhãn hiệu.

Trong khuôn khổ của Luận văn này, tác giả xin đề xuất sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật liên quan đến công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Một là, sửa đổi, bổ sung Luật Hải quan theo hướng xác định rõ phạm vi loại hình hàng hoá XK, NK cơ quan Hải quan kiểm tra, giám sát và các trường hợp cơ quan Hải quan không áp dụng biện pháp kiểm soát liên quan đến SHTT. Trong đó, quy định các trường hợp ngoại trừ đối với hàng hóa là hành lý cá nhân trong tiêu chuẩn miễn thuế, hàng gửi với số lượng nhỏ hoặc không mang tính thương mại, hàng hoá NK song song.

Hai là, bổ sung quy định trường hợp chủ hàng yêu cầu đưa hàng hóa về bảo quản thì cơ quan Hải quan chấp nhận trong trường hợp hàng hóa đó có nghi ngờ xâm phạm quyền và phải được chủ thể quyền đồng ý nhằm một mặt đảm bảo tuân thủ quy định tại Điều 52.2 của Hiệp định TRIPs, mặt khác đáp ứng yêu cầu thực tế công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu tại cơ quan Hải quan, giảm thiểu các chi phí lưu kho, lưu bãi cho người NK trong thời gian cơ quan Hải quan giải quyết vụ việc. Đồng thời, đề nghị sửa đổi thời hạn kiểm tra, giám sát Hải quan đối với hàng hóa có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT từ 01 (một) năm như hiện nay lên 02 (hai) năm kể từ ngày cơ quan Hải quan chấp nhận yêu cầu của chủ thể quyền. Thời hạn này có thể được gia hạn thêm 02 (hai) năm nhưng không được quá thời hạn bảo hộ nhãn hiệu đã được đăng ký.

Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế liên quan - 16

Ba là, Luật Hải quan cũng cần quy định rõ các biện pháp kiểm soát biên giới đối với hàng hoá XNK liên quan đến SHTT, trong đó xác định đối tượng và mục đích thực hiện các biện pháp như: kiểm soát Hải quan để phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa xâm phạm quyền SHTT qua biên giới; kiểm tra, giám sát Hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải nhằm phát hiện hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT để chủ thể quyền thực hiện quyền yêu cầu áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục Hải quan hoặc để cơ quan Hải quan áp dụng biện pháp chủ động bắt giữ hàng hóa là hàng giả mạo về

SHTT; tạm dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT; cơ quan Hải quan chủ động bắt giữ hàng hóa là hàng giả mạo về SHTT trong đó có nhãn hiệu trong trường hợp chủ thể quyền chưa nộp đơn yêu cầu tạm dừng làm thủ tục Hải quan.

Việc quy định cơ quan Hải quan có thẩm quyền chủ động bắt giữ hàng hoá vi phạm là hàng hoá giả mạo về SHTT kể cả trong trường hợp chủ thể quyền chưa nộp đơn yêu cầu tạm dừng là việc nội luật hoá quy định về thẩm quyền mặc nhiên (ex- officio) quy định tại Điều 58 Hiệp định TRIPs nhằm đảm bảo thực hiện các các cam kết quốc tế của Việt Nam với tư cách là thành viên của WTO, đồng thời tạo điều kiện cho cơ quan Hải quan có thẩm quyền đủ mạnh để kiểm soát có hiệu quả hàng hoá xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu tại biên giới.

Nội dung sửa đổi, bổ sung tại Luật Hải quan như sau:

“Mục . Kiểm soát hàng hoá tại biên giới có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT Điều . Nguyên tắc áp dụng các biện pháp kiểm soát biên giới đối với hàng

hóa có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT

1. Cơ quan Hải quan có quyền áp dụng các biện pháp quy định tại Điều 58 của Luật này để thực hiện việc kiểm soát biên giới đối với hàng hóa xuất khẩu, NK có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT, trừ trường hợp hàng hóa là hành lý cá nhân, hàng gửi với số lượng nhỏ hoặc không mang tính thương mại.

2. Chủ thể quyền SHTT đã được bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam có quyền yêu cầu cơ quan Hải quan áp dụng các biện pháp kiểm soát biên giới đối với hàng hóa xuất khẩu, NK để bảo vệ quyền SHTT của mình khi đã thực hiện các nghĩa vụ quy định tại Luật này.

3. Trong thời hạn áp dụng biện pháp kiểm soát Hải quan, tạm dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa xâm phạm quyền SHTT mà chủ hàng có yêu cầu đưa hàng hóa về bảo quản thì cơ quan Hải quan chỉ chấp nhận trong trường hợp hàng hóa đó có nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT đối với sáng chế, kiểu

dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, bí mật kinh doanh, tên thương mại và được chủ thể quyền đồng ý.

4. Thời hạn áp dụng biện pháp kiểm tra, giám sát Hải quan đối với hàng hóa có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT là 02( hai) năm kể từ ngày cơ quan Hải quan chấp nhận yêu cầu của chủ thể quyền. Thời hạn này có thể được gia hạn thêm 02 (hai) năm nhưng không được quá thời hạn bảo hộ đối tượng quyền SHTT có liên quan.

Điều . Các biện pháp kiểm soát biên giới

1. Kiểm soát Hải quan để phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa xâm phạm quyền SHTT qua biên giới.

2. Kiểm tra, giám sát Hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải nhằm phát hiện hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT để chủ thể quyền thực hiện quyền yêu cầu áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục Hải quan hoặc để cơ quan Hải quan áp dụng biện pháp chủ động bắt giữ hàng hóa là hàng giả mạo về SHTT.

3. Tạm dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT.

4. Chủ động bắt giữ hàng hóa là hàng giả mạo về SHTT trong trường hợp chủ thể quyền chưa nộp đơn yêu cầu tạm dừng làm thủ tục Hải quan.

Điều . Nghĩa vụ của chủ thể quyền SHTT

Khi có yêu cầu kiểm soát tại biên giới đối với hàng hóa xuất khẩu, NK liên quan đến SHTT, chủ thể quyền SHTT phải:

1. Gửi cho cơ quan Hải quan đơn yêu cầu, chứng cứ chứng minh mình là chủ thể quyền SHTT, thông tin để xác định hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT hoặc để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT;

2. Nộp một khoản tiền bằng 20% giá trị lô hàng hoặc tối thiểu hai mươi triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị lô hàng hoặc chứng từ bảo lãnh

của ngân hàng, tổ chức tín dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và thanh toán các chi phí phát sinh cho người bị áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục Hải quan trong trường hợp hàng hóa bị tạm dừng làm thủ tục Hải quan không xâm phạm quyền SHTT.”.

Hướng dẫn triển khai thực hiện các quy định của Luật Hải quan 2001 đã được sửa đổi bổ sung năm 2005 và Luật SHTT 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009, cần xây dựng Nghị định thay thế Nghị định 154/2005/NĐ- CP theo hướng:

- Quy định rõ nội dung thực hiện các biện pháp kiểm soát hàng hoá XNK liên quan đến SHTT trong đó chú trọng đến hai biện pháp: biện pháp kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền theo đề nghị của chủ thể quyền và biện pháp tạm dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT theo yêu cầu của chủ thể quyền, nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và xác định rõ thẩm quyền của cơ quan Hải quan trong việc kiểm soát hàng hoá XK, NK liên quan đến SHTT.

- Quy định cụ thể danh mục hồ sơ, trình tự, thủ tục tiếp nhận và xử lý Đơn yêu cầu đối với hai trường hợp riêng biệt là đối với đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát và đơn yêu cầu tạm dừng làm thủ tục Hải quan trên nguyên tắc đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát là cơ sở và là căn cứ chủ yếu để cơ quan Hải quan triển khai thực hiện yêu cầu tạm dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hoá vi phạm. Hồ sơ, tài liệu nộp cho cơ quan Hải quan theo hướng giảm bớt các giấy tờ, tài liệu không cần thiết. Trình tự, thủ tục được thực hiện theo hướng đơn giản hoá, rút ngắn thời gian giải quyết đơn yêu cầu nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu 3 (ba) giảm: giảm giấy tờ, hồ sơ; giảm chi phí và giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính theo yêu cầu của Đề án 30 của Chính phủ đã đề ra.

- Xác định thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan Hải quan khi tiến hành kiểm tra, giám sát và kiểm soát về SHTT trong quá trình làm thủ tục Hải quan, trình tự thủ tục và thời hạn tạm dừng làm thủ tục Hải quan, kiểm tra xác định

tình trạng pháp lý về SHTT của hàng hoá. Theo đó, việc xác định tình trạng pháp lý của hàng hoá được cơ quan Hải quan trưng cầu hoặc do chủ thể quyền yêu cầu thông qua giám định tại cơ quan chuyên môn có chức năng giám định.

- Quy định trách nhiệm của chủ thể quyền SHTT, các cơ quan liên quan như: cơ quan quản lý Nhà nước về SHTT, các cơ quan thực thi khác, tổ chức giám định trong việc cung cấp thông tin, hỗ trợ và phối hợp với cơ quan Hải quan trong việc điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, xử lý các hành vi vi phạm.

- Cần xem xét bổ sung các quy định như: Xác định một số loại hình XNK không thuộc diện kiểm soát về SHTT đảm bảo phù hợp với Hiệp định TRIPs và Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ; quy định về trường hợp miễn trách nhiệm của cơ quan Hải quan trong trường hợp thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan Hải quan thực hiện công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới là Luật SHTT. Do vậy, để đảm bảo thực hiện có hiệu quả cần bổ sung quy định tại Luật SHTT nội dung, chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa ngoài việc làm thủ tục đăng ký bảo hộ quyền SHTT với Cục SHTT (thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ), đồng thời yêu cầu các chủ sở hữu quyền SHTT thực hiện đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại cơ quan Hải quan có thể chủ động phát hiện các trường hợp hàng hóa vi phạm quyền SHTT và thu giữ kịp thời; hoặc kịp thời báo cho chủ sở hữu quyền biết để tìm biện pháp ngăn chặn. Trường hợp này cũng sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho cơ quan Hải quan khi kiểm soát hàng hóa NK song song.

Cần hướng dẫn cụ thể các quy định của Bộ luật Hình sự về thế nào là quy mô thương mại để xác định yếu tố cấu thành của tội xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Quốc hội cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Bộ Luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự bổ sung quy định cho cơ quan Hải quan có thẩm quyền khởi tố hình sự đối với các tội phạm xâm phạm quyền SHTT xảy ra trong lĩnh vực Hải quan.

Sửa đổi, bổ sung Nghị định 97/2010/NĐ- CP các nội dung: bổ sung hành vi, chế tài xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi XK hàng hoá xâm phạm quyền và hàng hoá giả mạo nhãn hiệu để đảm bảo việc kiểm soát hàng hoá XNK một cách đồng bộ và toàn diện cả đầu ra và đầu vào. Quy định này đảm bảo tuân thủ các quy định của TRIPs, Luật Hải quan và Luật SHTT, đáp ứng yêu cầu ngăn chặn và xử lý đối với hàng hoá XK vi phạm quyền SHTT đang diễn ra phổ biến hiện nay, tạo điều kiện cho cơ quan Hải quan thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.

3.4.2. Nâng cao năng lực thực thi của cơ quan Hải quan

Trong công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới, ngành Hải quan cần phải chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp như: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin trong triển khai thực hiện các biện pháp nghiệp vụ.

Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công tác này, cơ quan Hải quan cần xây dựng tiêu chuẩn, điều kiện về trình độ nghiệp vụ chuyên môn, yêu cầu kinh nghiệm thực tế công tác đối với từng chức danh và vị trí công tác của các cán bộ Hải quan chuyên trách thực hiện hoạt động bảo vệ quyền SHTT trong toàn hệ thống ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương. Trên cơ sở bản mô tả công việc các tiêu chuẩn chuẩn chức danh, Vụ tổ chức cán bộ xây dựng kế hoạch tuyển dụng cán bộ công chức vào ngành theo yêu cầu tương ứng hàng năm theo chương trình kế hoạch chung của Tổng cục Hải quan. Để một người có thể đảm nhận vị trí công tác là một cán bộ Hải quan chuyên trách thực thi quyền SHTT tại biên giới, cần có những điều kiện cơ bản như: tốt nghiệp đại học chính quy các chuyên ngành Luật, Kinh tế, quan hệ quốc tế, ngoại ngữ, đã được qua khoá đào tạo cơ bản về pháp luật và nghiệp vụ SHTT. Đối với chức danh từ phó trưởng phòng trở lên, ngoài việc đáp ứng các tiêu chuẩn đối với cán

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/10/2023