Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Hoạt Động Đăng Ký Giám Sát Hải Quan Về Shtt

bộ Hải quan chuyên trách nêu trên còn phải đáp ứng tiêu chuẩn, có thời gian công tác trong ngành Hải quan ít nhất 05 năm.

Tổng cục Hải quan cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo nghiệp vụ cơ bản và nghiệp vụ chuyên sâu về SHTT để trang bị cho cán bộ Hải quan chuyên trách các kiến thức cơ bản về bảo vệ quyền SHTT và biện pháp, thủ tục thực thi quyền SHTT tại cơ quan Hải quan. Có thể thông qua các hình thức như: chủ trì tổ chức hoặc phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước về SHTT (Cục SHTT, Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ) và các cơ quan thực thi khác tổ chức các khoá đào tạo nghiệp vụ đảm bảo cho tất cả các cán bộ Hải quan trong Ngành đều được đào tạo nghiệp vụ cơ bản về lĩnh vực này, đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu cho các cán bộ lãnh đạo và các cán bộ chuyên trách có năng lực để tạo nguồn xây dựng đội ngũ chuyên gia hàng đầu cho ngành Hải quan trong lĩnh vực này. Mời các chuyên gia đầu ngành hoặc quốc tế về lĩnh vực SHTT giảng dạy, phổ biến kinh nghiệm. Hàng năm cần phải dành một khoản kinh phí hợp lý cho việc cử cán bộ học tập về lĩnh vực này ở nước ngoài, cùng với việc đào tạo các chuyên gia trong nước dần hình thành một đội ngũ cán bộ có trình độ, kiến thức, kinh nghiệm hoạt động chuyên trách trong lĩnh vực bảo hộ quyền SHTT.

Để góp phần nâng cao năng lực thực thi của cơ quan Hải quan trong việc kiểm tra, giám sát và kiểm soát đối với hàng hoá XNK, thời gian qua cơ quan Hải quan đã áp dụng quản lý rủi ro để phục vụ việc làm thủ tục Hải quan và thông quan hàng hoá. Tuy nhiên, các ứng dụng của công tác quản lý rủi ro chưa được triển khai áp dụng để phục vụ công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới.

Vì vậy, trước tình hình hoạt động xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu ngày càng gia tăng, đòi hỏi cơ quan Hải quan phải có những biện pháp quản lý hữu hiệu hơn so với cách thức quản lý như hiện nay, vừa đảm bảo chặt chẽ vừa thông thoáng, đáp ứng với yêu cầu hiện đại hóa của ngành Hải quan. Theo cách tra cứu thông tin thủ công về SHTT như hiện

nay, cơ quan Hải quan đang áp dụng thì Tổng cục Hải quan chuyển đơn và tài liệu kèm theo xuống các đơn vị địa phương qua đường văn thư và hòm thư điện tử, cán bộ Hải quan khi làm thủ tục hoặc thực hiện việc kiểm soát hàng hóa XNK có thể tra cứu hoặc không tra cứu vì nhiều lý do khác nhau đã dẫn đến việc để lọt hàng hóa có nghi ngờ xâm phạm quyền hoặc hàng hoá giả mạo đối với nhãn hiệu. Vì vậy, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý rủi ro về thực thi bảo vệ quyền SHTT. Theo đó, xác lập các tiêu chí quản lý theo hướng: hệ thống sẽ cảnh báo khi trong tờ khai Hải quan xuất hiện mặt hàng có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT nhưng tại mục tên hàng chưa khai báo về nhãn hiệu hàng hóa; đồng thời, bổ sung các tiêu chí như: xuất xứ, mã HS, loại hình XNK, tuyến đường vận chuyển của hàng thật, danh sách người NK chính thức vào Việt Nam, giá của hàng thật.... Các thông tin này so sánh với các thông tin từ Đơn yêu cầu bảo vệ quyền SHTT do chủ sở hữu quyền nộp và các thông tin khác thu thập từ các nguồn như hệ thống CI01, chương trình xử lý vi phạm.., các thông tin này được thiết lập và đưa vào hệ thống để xác định hình thức kiểm tra là hình thức “kiểm tra chi tiết hồ sơ”. Nếu phát hiện hàng hóa có nghi ngờ xâm phạm, cơ quan Hải quan sẽ tạm dừng theo quy định của Luật SHTT và Luật Hải quan.

Việc xây dựng các tiêu chí SHTT áp dụng cho chương trình quản lý rủi ro sẽ giúp tăng cường công tác áp dụng các biện pháp kiểm soát NK, hạn chế nhập siêu, giúp cho việc khai báo được rõ ràng, đầy đủ về nhãn hiệu của hàng hóa, khắc phục tình trạng khai báo chung chung như vẫn tồn tại, giúp phát hiện kịp thời hàng hóa có nghi ngờ xâm phạm. Thông tin cảnh báo được lưu trong hệ thống sẽ tạo thuận lợi cho công tác kiểm tra, thanh tra, thu thập thông tin phục vụ cho công tác đấu tranh chống buôn lậu, phát hiện sai phạm của doanh nghiệp cũng như sai sót nghiệp vụ của cán bộ Hải quan (nếu có) để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Việc áp dụng quản lý rủi ro vào lĩnh vực SHTT sẽ giảm thiểu áp lực đối với các công chức làm công tác trực tiếp tại địa phương, giúp cho các

công chức làm trực tiếp sẽ nắm được các mặt hàng đã đăng ký một cách dễ dàng và thực hiện thông báo đúng quy định đối với những lô hàng nghi ngờ vi phạm

Trước tiên, đề nghị áp dụng thí điểm đối với 09 Cục Hải quan tỉnh, thành phố bao gồm: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Trị, Đà Nẵng, TP. HCM, Tây Ninh và Bình Dương. Thử nghiệm áp dụng đối với 09 nhóm mặt hàng theo mã 04 số đối với các nhóm hàng trọng điểm như điện thoại di động, quần áo giáy dép, túi xách, điện tử, đồ gia dụng... Loại hình XNK dự kiến áp dụng: XNK theo hợp đồng thương mại, tạm nhập – tái xuất theo loại hình kinh doanh, hàng gửi kho ngoại quan; hàng xuất theo loại hình gia công, xuất theo loại hình sản xuất XK, NK vào khu kinh tế cửa khẩu theo hợp đồng thương mại, NK vào khu thương mại theo hợp đồng thương mại. Trước mắt xây dựng danh mục nhóm mặt hàng rủi ro về SHTT theo nội dung tên hàng, mã hàng hóa (06 số hoặc 08 số), tiến hành khảo sát việc làm thủ tục Hải quan tại một số đơn vị như: Cục Hải quan Hải Phòng (loại hình nhập kinh doanh, gia công), Cục Hải quan Quảng Ninh (loại hình nhập kho ngoại quan, tạm nhập – tái xuất theo hợp đồng thương mại), Cục Hải quan Lạng Sơn (loại hình tạm nhập – tái xuất theo hợp đồng thương mại), Cục Hải quan Quảng Trị và Cục Hải quan Tây Ninh (loại hình XNK vào khu kinh tế cửa khẩu). Sau 02 năm, Tổng cục Hải quan sẽ tổ chức đánh giá kết quả thực hiện thí điểm tại các Cục Hải quan tỉnh, thành phố nêu trên. Đồng thời, thông qua việc đánh giá phát hiện những tồn tại vướng mắc để khắc phục, đến năm 2015 dự kiến sẽ nhân rộng áp dụng trong phạm vi cả nước.

Đi đôi với việc áp dụng quản lý rủi ro vào công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá, các đơn vị Hải quan chuyên trách cần khai thác có hiệu quả hệ thống các cơ sở dữ liệu của Ngành Hải quan để phục vụ công tác phòng chống, điều tra, xác minh và xử lý các vi phạm về SHTT đối với nhãn hiệu như: chương trình GTT22, số liệu XNK, chương trình số liệu về xử lý vi phạm, cơ sở dữ liệu về thuế. Thông qua thông tin thu thập được từ hệ thống các cơ sở dữ liệu này, cơ quan Hải quan có thể phát hiện được các dấu hiệu vi phạm, dấu hiệu của

hàng hoá giả nhãn hiệu như: hàng hoá khai báo trị giá thấp so với mặt hàng tương tự cùng loại đã khai báo trên hệ thống, được vận chuyển không đúng tuyến đường theo như thông tin do chủ thể quyền cung cấp, người NK không phải là nhà phân phối chính thức của chủ thể quyền SHTT...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu về SHTT của cơ quan Hải quan đang được tồn tại dưới dạng là các file dữ liệu điện tử (bao gồm các bản Word, bản Scan, ảnh chụp) được lưu trên máy tính cá nhân của cán bộ chuyên trách về SHTT tại Tổng cục Hải quan. Các file dữ liệu này đã được Tổng cục Hải quan chuyển đến các đơn vị Hải quan địa phương thông qua đường thư điện tử Gmail do đơn vị thuộc Tổng cục tự thiết lập. Các dữ liệu được cập nhật thường xuyên, hàng ngày xuống các địa phương khi đơn yêu cầu được chấp nhận kiểm tra, giám sát về SHTT. Tuy nhiên, các dữ liệu này hiện nay không được xắp xếp khoa học, nên việc tra cứu các thông tin không thuận tiện. Việc thực hiện tra cứu thông tin tại Tổng cục Hải quan thực hiện thông qua việc tìm kiếm trên hệ thống các thư điện tử đã gửi đi trên hòm thư shtt.tchq@gmail.com. Hệ thống kho dữ liệu tồn tại dưới hình thức không chính thống (file điện tử) như dưới dạng là hệ thống cơ sở dữ liệu của ngành Hải quan, như hệ thống cơ sở dữ liệu về trị giá tính thuế hay số liệu XNK. Do vậy, trong năm 2010 sau khi tiến hành rà soát việc nhận dữ liệu của các Cục Hải quan địa phương từ hòm thư điện tử của Tổng cục đã xảy ra trường hợp, nhiều đơn vị đã không nhận được hoặc nhận được nhưng không đầy đủ các dữ liệu do Tổng cục Hải quan chuyển xuống cho các đơn vị. Do đó, khi phát sinh vụ việc về hàng hoá có nghi ngờ xâm phạm các Chi cục Hải quan cửa khẩu đã không cập nhập kịp thời các thông tin liên quan đến hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo vệ tại cơ quan Hải quan, mất nhiều thời gian để trao đổi với đơn vị tại Tổng cục hoặc lúng túng không giải quyết được vì không có thông tin đầy đủ về nhãn hiệu của hàng hoá.

Vì vậy, để đảm bảo việc khai thác cơ sở dữ liệu về SHTT có hiệu quả, Tổng cục Hải quan cần có kế hoạch xây dựng phần mềm công nghệ thông tin về

Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế liên quan - 17

hệ thống cơ sở dữ liệu SHTT của ngành Hải quan dưới dạng cơ sở dữ liệu chuyên ngành như đối với các cơ sở dữ liệu khác của ngành: về giá, thuế, số liệu XNK... tích hợp để đưa vào hệ thống cơ sở dữ liệu chung của Ngành, có phân quyền truy cập cho từng cá nhân, đơn vị phù hợp với công việc được giao, đảm nhiệm, nhưng vẫn đảm bảo tính bảo mật và phục vụ kịp thời yêu cầu công tác, đảm bảo việc sử dụng và khai thác có hiệu quả. Đồng thời, xây dựng Sổ tay chống hàng giả và bảo vệ quyền SHTT trong lĩnh vực Hải quan để phục vụ công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới.

Ngành Hải quan cần thiết phải trang bị phương tiện cần thiết khác ngoài máy soi container, camera giám sát, như các loại máy móc, phương tiện kỹ thuật kiểm tra công nghệ cao để phân biệt hàng thật – hàng giả tại các Chi cục cửa khẩu đối với các trường hợp bằng mắt thường không thể phân biệt được.

3.4.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đăng ký giám sát Hải quan về SHTT

Trong thời gian tới, để đảm bảo nâng cao hiệu quả thực hiện công tác này, Tổng cục Hải quan cần nghiên cứu xây dựng Đề án “Tiếp nhận và xử lý đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát trực tuyến”. Để triển khai thực hiện Đề án này, theo tác giả cần tiến hành theo hai giai đoạn:

Giai đoạn 1, trên cơ sở tham khảo mô hình và cách thức đăng ký giám sát quyền SHTT đối với hàng hóa XNK của Mỹ và Trung Quốc, cơ quan Hải quan xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin về phần mềm đăng ký đơn yêu cầu trực tuyến qua mạng Internet được thiết kế trên Website của Tổng cục Hải quan. Thông qua hệ thống này, các chủ thể quyền SHTT của nhãn hiệu có thể đăng ký yêu cầu kiểm tra, giám sát trực tuyến với cơ quan Hải quan. Đơn yêu cầu và các tài liệu kèm theo được chủ thể quyền đưa lên hệ thống và được truyền vào dữ liệu chờ giải quyết của cơ quan Hải quan. Trong thời gian quy định, cơ quan Hải quan sẽ xem xét các tài liệu do chủ thể quyền đăng ký trên hệ thống và ra quyết định chấp nhận hoặc từ chối đơn yêu cầu của họ. Hệ thống này

cho phép cả cơ quan Hải quan và chủ thể quyền có thể cập nhập thường xuyên và có sự trao đổi các thông tin liên quan đến hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ để trong trường hợp cần thiết có sự phối hợp xử lý kịp thời.

Tương tự như đối với đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát, chủ thể quyền cũng có thể yêu cầu cơ quan Hải quan tạm dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu do mình đã đăng ký tại cơ quan Hải quan trên hệ thống đăng ký online này. Cơ quan Hải quan có thể theo dõi các thông tin phản hồi từ phía chủ thể quyền về hàng hóa nghi ngờ xâm phạm để có cơ sở triển khai thực hiện các bước tiếp theo.

Giai đoạn 2, hệ thống này sẽ được nâng cấp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc ghi chép, nhận dạng nhãn hiệu, nhận biết các dấu hiệu để phân biệt hàng thật – hàng giả của Hải quan, ghi lại lịch sử quá trình kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm đối với từng nhãn hiệu. Cơ quan Hải quan có thể sử dụng thông tin này để phân tích những rủi ro về hành vi xâm phạm của bất kỳ doanh nghiệp nào và xây dựng kế hoạch giám sát. Hệ thống sẽ tự động thông báo cho các chủ sở hữu quyền SHTT bằng thư điện tử về các kết quả áp dụng cho dù được cấp hoặc từ chối và chủ sở hữu quyền SHTT có thể sử dụng hệ thống đã được sửa đổi này để cập nhật thông tin của họ, chẳng hạn như tên người liên hệ, số điện thoại hoặc địa chỉ bưu chính, danh mục của nhà sản xuất hoặc thương nhân được cấp phép sử dụng nhãn hiệu.

Với việc nâng cấp hệ thống hạ tầng công nghệ này sẽ cho phép tất cả các Chi cục Hải quan trong cả nước có thể truy cập được vào hệ thống, đồng thời lưu trữ tất cả các hồ sơ đã và đang đăng ký giám sát tại cơ quan Hải quan có kèm theo đầy đủ các hình ảnh của sản phẩm chính hãng và vi phạm. Trung tâm dữ liệu này còn được xem như một trung tâm đào tạo tốt cho các cán bộ Hải quan cửa khẩu trong việc xác định hành vi giả mạo và xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu.

Nếu hệ thống đăng ký trực tuyến nêu trên được triển khai thực hiện thành công sẽ góp phần giảm thời gian, chí phí và cả nguồn nhân lực cho cơ quan Hải quan và các chủ thể quyền SHTT; phục vụ có hiệu quả công tác quản lý rủi ro, đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và vận chuyển trái phép hàng giả và hàng hóa xâm phạm quyền SHTT qua biên giới quốc gia.

3.4.4. Củng cố tổ chức bộ máy chuyên trách bảo vệ quyền SHTT tại cơ quan Hải quan từ trung ương đến địa phương

Hiện nay hệ thống tổ chức bộ máy chuyên trách bảo vệ quyền SHTT tại cơ quan Hải quan còn hạn chế về quy mô, số lượng cán bộ chuyên trách còn ít trong khi phải giải quyết khối công việc rất lớn, ngoài một đơn vị cấp phòng gồm 28 cán bộ Hải quan tại Cục Điều tra chống buôn lậu phải đảm trách tất cả các nhiệm vụ của một lĩnh vực riêng biệt của Ngành Hải quan: từ xây dựng chính sách đến đấu tranh, bắt giữ và xử lý vi phạm, từ tuyên truyền, đào tạo đến hợp tác quốc tế về SHTT thì tại các Cục Hải quan tỉnh thành phố, lĩnh vực này chỉ được coi là nhiệm vụ được giao thêm cho các đơn vị, không có đơn vị chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này [4]. Trong tương lai nếu không nâng cấp và mở rộng để hoàn thiện bộ máy tổ chức, được dự đoán sẽ không đáp ứng được yêu cầu thực tế nhiệm vụ được giao.

Do vậy, để đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan Hải quan trong thời gian tới, theo tác giả Bộ Tài chính cần nghiên cứu củng cố tổ chức bộ máy chuyên trách bảo vệ quyền SHTT tại cơ quan Hải quan theo hướng:

- Ở trung ương, thành lập Cục Kiểm soát chống hàng giả và bảo vệ quyền SHTT trực thuộc Tổng cục Hải quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Đội Kiểm kiểm soát bảo vệ quyền SHTT thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu hiện tại, bao gồm: tham mưu cho Lãnh đạo Tổng cục Hải quan chỉ đạo toàn ngành trong lĩnh vực thực thi bảo vệ quyền SHTT, chống hàng giả; trực tiếp hoặc phối hợp với Hải quan địa phương hoặc các cơ quan nhà nước có chức năng áp dụng các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát Hải quan để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn,

bắt giữ điều tra, xử lý các vụ buôn bán, vận chuyển trái phép hàng giả, hàng xâm phạm quyền SHTT qua biên giới có tính chất nghiêm trọng; xây dựng nội dung, chương trình và tham gia giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ; thực hiện và tham mưu cho Tổng cục Hải quan trong công tác tuyên truyền, hợp tác quốc tế về thực thi quyền SHTT, chống hàng giả trong ngành Hải quan.

Tăng cường biên chế cho lực lượng chuyên trách thực thi quyền SHTT, xây dựng Cục Kiểm soát chống hàng giả và bảo vệ quyền SHTT có đầy đủ các phòng, ban chức năng thực hiện các nhiệm vụ riêng biệt, bao gồm 03 Đội và 04 phòng: Đội Kiểm soát chống hàng giả và bảo vệ quyền SHTT tại 03 khu vực Bắc, Trung, Nam; Phòng Tham mưu tổng hợp, Phòng Xử lý vi phạm, Phòng quan hệ quốc tế và Phòng tổ chức, tài chính và quản trị với tổng biên chế khoảng 350 người. Trong đó, các Đội trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đấu tranh, bắt giữ và xử lý vi phạm về SHTT tại tất cả các địa bàn hoạt động Hải quan trong cả nước, các Phòng ban chức năng thực hiện nhiệm vụ tham mưu, xây dựng chính sách, đào tạo, tuyên truyền và hợp tác quốc tế, chăm lo công tác hậu cần của Cục.

- Tại địa phương, thành lập Đội Kiểm soát chống hàng giả và bảo vệ quyền SHTT trực thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố thực hiện chức năng, nhiệm vụ: kiểm soát hàng hóa XNK liên quan đến SHTT thuộc phạm vi địa bàn do Cục quản lý. Trực tiếp chủ trì hoặc phối hợp thực hiện công tác đấu tranh, bắt giữ và xử lý vi phạm về SHTT thuộc chức năng, nhiệm vụ của Cục. Công tác tham mưu, xử lý vi phạm vẫn giao cho Phòng Chống buôn lậu và xử lý như hiện nay.

Các đơn vị thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố chủ trì hoặc phối hợp với Cục Kiểm soát chống hàng giả và bảo vệ quyền SHTT thực hiện các chuyên án, chuyên đề theo chỉ đạo của Lãnh đạo Tổng cục Hải quan trên cơ sở xác định các trọng điểm trong từng thời kỳ và yêu cầu nhiệm vụ thực tế được Chính phủ, Bộ Tài chính giao cho.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/10/2023