Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Nghiệp Vụ Bảo Hiểm Gián Đoạn Kinh Doanh Tại Công Ty Bảo Hiểm Hà Nội


(2) trách nhiệm của công ty bảo hiểm, trong mọi trường hợp, sẽ không vượt quá :


(i) Tổng số tiền bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm tương ứng với mỗi khoản mục được kê khai trong giấy chứng nhận bảo hiểm

(ii) Bất cứ trách nhiệm được đưa ra trong giấy chứng nhận bảo hiểm hay bất cứ số tiền bảo hiểm nào được sửa đổi bởi các sửa đổi bổ sung đính kèm và được ký xác nhận bởi công ty bảo hiểm hay người đại diện cho công ty bảo hiểm" [2, 1].

1.2.2.2.5. Điều khoản loại trừ


"Đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không bảo hiểm cho các tổn thất do hậu quả của:


- Thiệt hại do thiết kế sai, khuyết tật của nguyên vật liệu hay do tay nghề kém; do những khuyết tật ẩn tì; do sự thoái hoá dần giá trị hoặc do sự biến dạng, hao mòn tự nhiên; do việc ngừng cung cấp điện, nước, khí đốt hay các nguồn nguyên liệu khác hay do sự hư hỏng của hệ thống thải rác; do ăn mòn, gỉ; do sự thay đổi độ ẩm hay khô của thời tiết; do nấm mốc mục nát; do hao hụt bay hơi, do hư hại do tác động của ánh sáng, sâu bọ côn trùng; do các hành động lừa dối không trung thực.

- Thiệt hại do những mất mát không giải thích được, những thiếu hụt do lỗi kế toán, lỗi kiểm kê, quản lý hành chính.

- Thiệt hại do đổ vỡ, rạn nứt hay áp suất quá tải của nồi hơi, bình đun bằng hơi, bình hay đường ống dò gỉ; do hư hỏng trục trặc máy móc thiết bị về đo điện hay cơ khí; vỡ, tràn nước, tháo nước hay dò gỉ.

- Thiệt hại do sự xói mòn của sông biển; sụt lở đất, lún đất.


- Thiệt hại do tài sản bị biến mất, thiếu hụt khi kiểm kê trong quá trình vận chuyển ngoài khu vực được đề cập hoặc không rõ nguyên nhân.

- Thiệt hại do thông tin bị tẩy xoá, mất mát, bóp méo trên hệ thống máy tính hoặc các chương trình phần mềm lưu trữ số liệu khác.

- Thiệt hại đối với kính lắp cố định, kính và các đồ dễ vỡ khác, các máy điện toán, các thiết bị xử lý dữ liệu, máy móc thiết bị đang lắp đặt, di chuyển, tài sản đang trong quá trình kiểm tra, lắp đặt, sửa chữa, xây dựng, xe cơ giới đang lưu hành trên đường.


- Thiệt hại do bất kỳ hành động cố ý hay sự cẩu thả cố tình của người được bảo hiểm hay bất kỳ ai đại diện cho họ.

- Thiệt hại do hậu quả dù trực tiếp hay gián tiếp của chiến tranh, xâm lược, các hành động thù địch, nội chiến, binh biến, bạo động, hành động khủng bố

- Thiệt hại gây ra do người được bảo hiểm bị tước quyền sở hữu tạm thời hay vĩnh viễn do bị tịch thu tài sản, trưng dụng tài sản theo lệnh của nhà cầm quyền hợp pháp.

- Thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp hoặc phát sinh từ hậu quả hay do ảnh hưởng một phần của bất kỳ nguyên liệu vũ khí hạt nhân nào, phóng xạ ion hoá hay do ô nhiễm phóng xạ" [2, 3].

1.2.2.2.6. Phí bảo hiểm


Phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm do người được bảo hiểm chọn (gọi là số tiền bảo hiểm đăng ký). Để đăng ký một hợp đồng bảo hiểm thiệt hại kinh doanh người tham gia bảo hiểm phải thông báo một loạt số liệu về kế toán, đặc biệt là tài khoản kết quả sản xuất kinh doanh thực hiện một số năm trước đó. Căn cứ vào tài khoản này cộng thêm với lời khai báo, hai bên thỏa thuận với nhau về số tiền bảo hiểm (cụ thể số tiền bảo hiểm ở đây là lợi nhuận gộp). Việc thoả thuận được số tiền bảo hiểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho công tác tính phí vì thực chất phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được xác định như sau:

Phí bảo hiểm = số tiền bảo hiểm x tỉ lệ phí bảo hiểm Tỉ lệ phí bảo hiểm phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản:

- Xác suất rủi ro của nghiệp vụ bảo hiểm.


- Phạm vi bảo hiểm.


- Số tiền bồi thường cho một số năm trước đây.


Tuy vậy, trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, tỉ lệ phí bảo hiểm được tính dựa trên tỉ lệ phí bảo hiểm chung cho rủi ro hoả hoạn.

Việc tính phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào yếu tố thời gian, cụ thể là thời hạn bồi thường. Thời hạn bồi thường càng cao có nghĩa là trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm càng lớn, vì thế phí bảo hiểm cũng tăng tương ứng. Ví dụ, theo biểu phí Bảo Việt Hà Nội hiện đang triển khai thì nếu thời hạn bồi thường là 3 tháng thì tỉ lệ phí bảo hiểm là 50% tỉ lệ phí


bảo hiểm của bảo hiểm hoả hoạn, nếu 6 tháng là 75%, nếu 12 tháng là 100%. Tuy nhiên, thời hạn bồi thường tăng đến một mức nhất định thì phí bảo hiểm có xu hướng giảm dần do cơ sở tính phí sẽ thay đổi.

1.2.2.2.6. Thời hạn và phương thức bồi thường


Bồi thường là nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm. Trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, rất khó xác định số tiền bồi thường mặc dù đã có công thức xác định cách giải quyết tổn thất được ghi trong nội dung đơn bảo hiểm. Kế toán của người được bảo hiểm thường tham gia xác định mức lãi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thu được nếu như vụ hoả hoạn hay một hiểm hoạ nào đó không xảy ra.

Vấn đề bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác với bồi thường trong thiệt hại vật chất. Nếu như mục đích của bảo hiểm bồi thường trong các đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất là đưa người bảo hiểm trở về vị trí giống như trước khi xảy ra tổn thất , thì đối với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh lại không hoàn toàn như vậy. Chúng ta hãy xem xét một ví dụ ngắn. Một nhà sản xuất hàng phục vụ lễ Giáng Sinh.Và hiện giờ hàng đang trong nhà kho chờ ngày đem bán. Một vụ cháy xảy ra ở nhà kho, phá huỷ hầu hết số hàng hoá phục vụ cho Giáng Sinh. Như vậy ta sẽ thấy ngay có một số nhân tố khiến hầu như không thể đưa người được bảo hiểm trở về vị trí tài chính giống như trước khi xảy ra tổn thất như nhà sản xuất đã bỏ lỡ thị trường, mất khách hàng... Vì vậy, đối với các đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, bồi thường có thể được coi là một nỗ lực đưa người bảo hiểm trở về vị trí tài chính mà lẽ ra người đó sẽ phải có nếu như tổn thất không xảy ra.

Để xác định số tiền thiệt hại lợi nhuận gộp, công thức sau thường được sử dụng:



Tỉ lệ lợi nhuận gộp =

lợi nhuận được đảm bảo


Tổng giá trị các tài khoản thu nhập liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp


Thiệt hại doanh

=

thu thực tế

doanh thu lẽ ra được thực hiện

doanh thu thực tế

-

được thực hiện



Thiệt hại lợi nhuận

=

gộp


thiệt hại doanh thu thực tế


tỉ lệ lợi nhuận

x

gộp


Thiệt hại lợi nhuận gộp cho phép ta xác định được số tiền bồi thường tối đa, nhưng phải trừ đi mức miễn thường (thường được tính bằng ngày trong bảo hiểm thiệt hại kinh doanh). "Giả định, mỗi đơn vị doanh thu bao gồm 0,6 đơn vị là chi phí mua nguyên vật liệu và các chi phí biến đổi khác, 0,3 đơn vị là chi phi cố định, 0,1 đơn vị là lợi nhuận ròng. Tuy nhiên, khi xảy ra tổn thất làm gián đoạn kinh doanh thì người được bảo hiểm sẽ không phải gánh chịu tổn thất của cả 1 đơn vị doanh thu đó mà sự giảm doanh thu sẽ kéo theo việc giảm tương ứng chi phí biến đổi, vì vậy người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm đối với 0,6 đơn vị chi phí mua nguyên vật liệu và các chi phí biến đổi khác mà chỉ cần bồi thường 0,4 đơn vị chi phí cố định và lợi nhuận ròng là có thể đưa người được bảo hiểm trở về tình trạng tài chính mà lẽ ra người đó có nếu như tổn thất không xảy ra". [5, 61]. Do đó, số thiệt hại lợi nhuận gộp là số tiền bồi thường tối đa mà người được bảo hiểm có thể nhận được. Tuy nhiên trên thực tế, như đã phân tích trong ví dụ trên, thì số tiền bồi thường sẽ hiếm khi đạt được bằng số thiệt hại lợi nhuận gộp.

Yếu tố thời hạn bồi thường được đưa vào đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác hoàn toàn so với đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất, thời hạn bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được ghi rõ trong đơn bảo hiểm và phải do người được bảo hiểm tự chọn.

CHƯƠNG 2


THỰC TIỄN TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH

TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI TỪ NĂM 1998 - 2001


2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI

2.1.1. Giới thiệu chung về Công ty bảo hiểm Hà Nội


Công ty bảo hiểm Hà Nội (gọi tắt là Bảo Việt Hà Nội) được thành lập từ năm 1980 theo quyết định số 1125/QĐ-TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ Tài chính, và trực thuộc Tổng


công ty Bảo hiểm Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Bảo Việt Hà Nội là tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trải qua 21 năm hoạt động liên tục, công ty Bảo Việt Hà Nội đã không ngừng lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ lúc đầu thành lập chỉ có 10 cán bộ với một phòng nhỏ làm trụ sở, đến nay Bảo Việt Hà Nội đã trở thành một đơn vị kinh tế mạnh với đội ngũ hàng trăm cán bộ bảo hiểm, có trụ sở chính khang trang, thành lập các văn phòng trực thuộc tại tất cả các quận, huyện trên địa bàn thành phố cùng mạng lưới cộng tác viên, đại lý phủ kín các địa bàn dân cư của thành phố, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nhân dân, trở thành một đơn vị chủ lực của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Theo cơ cấu tổ chức văn phòng hiện nay, song song với nhiệm vụ khai thác khách hàng, văn phòng công ty có chức năng quản lý và giám sát hoạt động của các văn phòng địa phương trực thuộc. Bởi vậy, ngoài các phòng ban phụ trách các vấn đề tổ chức nhân sự, kế toán,..., những phòng nghiệp vụ ngoài nhiệm vụ trực tiếp tiến hành kinh doanh các nghiệp vụ trên địa bàn mà công ty phân cấp còn có chức năng giúp đỡ các văn phòng tại các quận, huyện trong việc quan hệ với khách hàng, cân nhắc chấp nhận bảo hiểm, phát hành hợp đồng bảo hiểm, xử lý khiếu nại, giám định và bồi thường.

Giám đốc

Phó Giám

đốc

Phó Giám

đốc

Phòng BH

Hàng hi

Phòng kim tra ni b

Phòng tng hp

Phòng BH kthut

Phòng BH

cháy & ri ro hn

Phòng BH

quc phòng

Phòng BH

Phi hàng hi

Phòng giám định bi thường

Cơ cấu tổ chức hiện nay của Bảo Việt Hà Nội được biểu hiện qua sơ đồ sau:


Phòng


Phòng


Phòng


Phòng


Phòng


Phòng


Phòng

BH


BH


BH


BH


BH


BH


BH

Hoàn


Ba


Đống


Hai Bà


Thanh


Gia


Đông

Kiếm


Đình


Đa


Trưng


Xuân


Lâm


Anh













....

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 57 trang tài liệu này.

Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001 - 3


Trong vài năm gần đây, kinh tế xã hội của cả nước nói chung và thủ đô nói riêng tiếp tục ổn định và phát triển. Đây là yếu tố thuận lợi cho công tác kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của Bảo Việt nói riêng. Được sự quan tâm chỉ đạo và ủng hộ của lãnh đạo Tổng công ty, sự hợp tác giúp đỡ thường xuyên của các phòng ban thuộc Tổng công ty, cán bộ công nhân viên của Bảo Việt Hà Nội đã từng bước tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động cạnh tranh. Hơn nữa, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cán bộ công ty cũng luôn đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh của Tổng công ty và Nhà nước giao cho. Năm nào Bảo Việt Hà Nội cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh, đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh số và tỷ lệ tích luỹ, đóng góp không nhỏ vào thành tích chung của Tổng công ty và của ngành bảo hiểm nói chung. Đó là những dấu hiệu đáng mừng đối với Bảo Việt Hà Nội. Bên cạnh đó, hoạt động của Công ty Bảo Việt Hà Nội cũng gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của thị trường bảo hiểm cao hơn những năm trước. Địa bàn thủ đô là nơi diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt không chỉ giữa các công ty bảo hiểm trong nước mà còn với công ty bảo hiểm nước ngoài. Bảo Việt Hà Nội phải cạnh tranh với các công ty khác không những về tỉ lệ phí, chi kinh doanh mà còn cả những yếu tố về phục vụ. Việc mở rộng hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài trên thị trường làm cho tính cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm trong nước vốn đã gay gắt nay càng thêm khốc liệt dẫn đến việc phí bảo hiểm có xu hướng giảm, nhất là trong các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm. Doanh thu phí bảo hiểm của các hoạt động này giảm đáng kể do phí bảo hiểm giảm và phải chia xẻ phí do đồng bảo hiểm. Hơn nữa, trong năm 2000 và 2001, tốc độ giải ngân các nguồn vốn đầu tư cho các dự án trên địa bàn Hà Nội còn chậm làm ảnh hưởng đến kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng, lắp đặt.

Trước điều kiện khó khăn như vậy, công ty đã tổ chức phục vụ tốt khách hàng để giữ vững địa bàn và phát triển kinh doanh, đồng thời áp dụng linh hoạt chính sách của Nhà nước, các quy định của Tổng công ty vào hoạt động kinh doanh. Một biện pháp quan trọng Bảo Việt Hà Nội đang thực hiện nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo khả năng cạnh tranh là thay đổi phương thức hạch toán kinh doanh, giao khoán cụ thể hoạt động


kinh doanh cho từng phòng, và các phòng phải có nhiệm vụ tương hỗ nhau nhằm thực hiện chỉ tiêu kinh doanh tốt hơn.

Với phương châm "phục vụ khách hàng là phục vụ chính mình", "đáp ứng những cái khách hàng cần chứ không phải những gì mình có", Bảo Việt Hà Nội đã không ngừng đổi mới phong cách làm việc để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. Vì vậy, Bảo Việt Hà Nội vẫn luôn là người bạn đồng hành tin cậy của khách hàng.

Ngoài ra, nhằm đảm bảo khả năng bồi thường cho khách hàng và năng lực nhận bảo hiểm cho các dự án đầu tư lớn, hiện nay Bảo Việt Hà Nội thông qua Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã quan hệ với nhiều công ty tái bảo hiểm, các công ty giám định, điều tra tổn thất có uy tín trên toàn thế giới như Lloyd's, Commercial Union (UK), AIG, CIGNA (Mỹ), Tokyo Marine, Yasuda Mitsui Marine (Nhật), Muniche (Đức),... Trong vài năm gần đây, Bảo Việt Hà Nội đã nhận được sự cộng tác, giúp đỡ tận tình của các công ty này trong việc đánh giá, chấp nhận rủi ro, thanh tra và xử lý khiếu nại.

2.1.2. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội

Mặc dù bảo hiểm hoả hoạn là một nghiệp vụ bảo hiểm xuất hiện từ rất xa xưa trong lịch sử phát triển của bảo hiểm, nhưng tại Việt Nam nói chung và tại Bảo Việt Hà Nội nói riêng, mãi đến ngày 17/1/1989 nghiệp vụ bảo hiểm cháy (hay bảo hiểm hoả hoạn) mới chính thức được triển khai theo quyết định số 06-TC-QĐ của Bộ Tài chính. Ngay sau khi được triển khai, nghiệp vụ bảo hiểm này đã khẳng định ngay vai trò quan trọng của nó qua việc doanh thu phí bảo hiểm tăng đều đặn qua các năm và ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu phí của tất cả các nghiệp vụ. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tuy là một nghiệp vụ mở rộng phạm vi của bảo hiểm cháy và đóng vai trò không kém phần quan trọng so với bảo hiểm cháy nhưng thực chất nó lại không ra đời vào thời điểm bảo hiểm cháy bắt đầu được triển khai. Phải cho tới năm 1994, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mới bắt đầu được đưa vào thử nghiệm. Từ khi đưa vào triển khai, số đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy do Bảo Việt Hà Nội kí được với khách hàng vẫn chưa nhiều, chủ yếu là với các công ty liên doanh và các công ty 100% vốn nước ngoài. Hầu hết các đơn bảo hiểm được cấp thông qua môi giới. Chúng ta có thể xem qua tỉ trọng của doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội thông qua bảng sau:


Bảng 1: Tỉ trọng doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001




1998


399


79.068

(%)

0,50

1999

505

87.653

0,58

2000

650

74.887

0,87

2001

895

75.800

1,18


Doanh thu bảo hiểm Năm gián đoạn kinh doanh

sau cháy(tr. đ)

Tỷ lệ doanh thu bảo hiểm

Doanh thu

gián đoạn kinh doanh sau

toàn công ty

cháy/ doanh thu toàn công ty

(tr. đ)

Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội.


Số liệu bảng 1 cho thấy tỷ lệ doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn so với tổng doanh thu của Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy rằng doanh thu của nghiệp vụ này ngày càng tăng cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối. Trong khi nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe cơ giới, bảo hiểm xây dựng lắp đặt,.. đang có xu hướng giảm dần doanh thu khai thác do phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo hiểm khác thì nghiệp vụ bảo hiểm này lại đang mang lại cho Bảo Việt Hà Nội doanh thu ngày càng tăng hơn qua các năm triển khai. Điều đó chứng tỏ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là một nghiệp vụ đầy tiềm năng, hứa hẹn mang lại nguồn thu không nhỏ cho Bảo Việt Hà Nội.

Hơn thế, với mục tiêu giữ khách hàng, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng trong thời buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cùng với mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả, ngoài việc củng cố, hoàn thiện, tiếp tục phát triển các nghiệp vụ truyền thống có doanh thu cao, Bảo Việt Hà Nội đã và đang tìm cách phát triển các nghiệp vụ khó khai thác như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.

2.2. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI TIẾN HÀNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI

2.2.1. Những thuận lợi cơ bản

Xem tất cả 57 trang.

Ngày đăng: 24/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí