Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - 2

những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả có kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê, khái quát hoá để giải quyết nội dung khoa học của đề tài. Đặc biệt, luận văn rất chú trọng phương pháp so sánh luật; kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.

6. Kết cấu của luận văn

Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu. Ngoài lời nói đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CP hoá DNNN

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CP hoá DNNN

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CP hoá DNNN

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ

ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG

TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.


1.1. Sự cần thiết phải CP hoá DNNN ở Việt Nam‌

Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - 2

Quá trình CPH DNNN không phải là một quá trình ngẫu nhiên, mà đằng sau nó là những nguyên nhân khiến cho hầu hết các Chính phủ đều đi đến các quyết định CP hoá các DNNN. Đối với Việt Nam, CP hoá là giải pháp tối ưu cho quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN. Sự cần thiết phải CP hoá DNNN là do:

1.1.1. CP hoá DNNN một câu hỏi khách quan của công cuộc đổi mới

Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp do hoàn cảnh lịch sử đất nước chúng ta là một nước bị chiến tranh tàn phá nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu kinh tế tư nhân chưa có điều kiện phát triển, lúc đó toàn dân đang dồn sức xây dựng lại đất nước sau chiến tranh. Thời kỳ đó DNNN chỉ hình thành tồn tại dưới hai hình thức là: Hình thức sở hữu tập thể ( các hợp tác xã) và các DNNN. Trong thời gian này nhà nước tham gia hoạt động ở tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều do nhà nước giữ quyền chỉ đạo và chi phối, hai hình thức DNNN này tồn tại và phát triển trong một thời gian dài, rất thích hợp với nền kinh tế nước ta trong thời gian này. Nhưng sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, với nhiều thành phần kinh tế tham gia thì hai hình thức DNNN này không còn hiệu quả và bộc lé những mặt hạn chế của nó do đó cần có sự đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN này. Những biện pháp nhằm đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của DN bao gồm: Chuyển một số công ty nhà nước đủ điều kiện thành công ty CP một số sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên,

giao bán khoán cho thuê, những công ty không thực hiện được việc chuyển sang CP trách nhiệm hưu hạn thì giải quyết theo thủ tục giải thể công ty nhà nước. Còn lại Nhà nước chỉ tham gia vào những lĩnh vực kinh tế then chốt như vận tải đường không bán buôn thuốc phòng bệnh chữa bệnh, bán buôn xăng dầu... Còn lại giao cho mọi thành phần kinh tế nắm giữ hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ chịu sự điều tiết của nhà nước về pháp luật và thuế.

Nguyên nhân này bắt nguồn từ sự thay đổi về nhận thức, về quan điểm về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Trước đây, do nhận thức sai lầm, xem nhẹ các quy luật kinh tế thị trường, coi nó là riêng có của chủ nghĩa tư bản, quá coi trọng sở hữu toàn dân, dẫn đến tình trạng trì trệ và thiếu động lực hoạt động của NLĐ cũng như chính DN. Vì vậy vấn đề đa dạng hoá sở hữu được đặt ra và thực hiện.

1.1.2.Tình trạng hoạt Động kém hiệu quả của DNNN.

Đây có lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các chính phủ phải đưa ra quyết định CP hoá. Các DNNN đã không thể hiện và phát huy được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía Nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ được tính hiệu quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được mong muốn của Đảng và Nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do Nhà nước dành cho. Trong tất cả các DNNN, chỉ một số ít là làm ăn có lãi, còn lại là thua lỗ hoặc lói không đáng kể.

1.1.3 Tài chính nghèo nàn của các DNNN làm tăng sự phụ thuộc của chúng vào ngân sách nhà nước

Nguyên nhân này là hệ quả trực tiếp của nguyên nhân trên. DNNN từ chỗ là đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước giờ lại trở thành gánh nặng. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy việc tiến hành CP hoá, vì các

khoản trợ cấp cho các DN ngày càng lớn, làm giảm nguồn lực để phát triển các ngành khác.

1.1.4. Các DNNN ta rất yếu về khả năng cạnh tranh

Có nhiều ngành, sản phẩm của DNNN đang được ưu đãi độc quyền hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế…) nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình. Khả năng cạnh tranh kém của các DNNN thể hiện ngay trên thị trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của các DNNN có xu hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực tư nhân… Tình trạng này nếu không được cải thiện sẽ ảnh hưởng không những đối với DN mà còn là gánh nặng của Nhà nước phải bù lỗ cho các DN này.‌

CPH chính là giải pháp tối ưu được lựa chọn để giải quyết các vấn đề trên.

1.2. Khái niệm và vai trò DNNN

1.2.1 Khái niệm DNNN

Luật DNNN do Quốc hội thông qua ngày 20/4/1995 đưa ra khái niệm có tính pháp lý về DNNN như sau: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”. (Điều 1 Luật DNNN năm 1995).

Định nghĩa trên cho thấy DNNN có những đặc điểm cơ bản sau đây:

Một là, DNNN là tổ chức kinh tế được Nhà nước thành lập để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước giao.

Hai là, DNNN do Nhà nước đầu tư vốn cho nên tài sản trong DN là thuộc sở hữu Nhà nước, DN quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là Nhà nước.

Ba là, DNNN có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật.

Bốn là, DNNN là DN chịu trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản do DN quản lý.

Định nghĩa trên về cơ bản phù hợp với thực tế môi trường và hoạt động của các DNNN ở Việt Nam, phù hợp với xu thế chung của thế giới trong vấn đề quan niệm về DNNN.

Năm 2003 khái niệm DNNN được phát triển sâu hơn, cụ thể Điều 1 Luật DNNN năm 2003 định nghĩa: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc vốn CP, vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Định nghĩa này cùng với các quy định khác của Luật DN năm 2003 chứa đựng một số điểm mới cơ bản sau:

Thứ nhất, nếu trước đây tiêu chí sở hữu được coi là cơ bản nhất, quyết định nhất khi xác định DNNN thì tiêu chí bây giờ là quyền kiểm soát và chi phối DNNN, vì vậy nếu chỉ dựa vào tiêu chí sở hữu nhiều khi khó phân biệt DNNN với các loại hình DN khác. Định nghĩa đã thừa nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một DNNN, đây là một bước tiến lớn trong quan niệm về DNNN, cho thấy sự đa dạng trong sở hữu và sự tự chủ hơn của DNNN từ đó tạo ra sự đa dạng về hình thức tồn tại của DNNN sẽ làm sinh động hơn thành phần kinh tế công, tạo sự thích nghi tốt hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, pháp luật hiện hành thừa nhận chuyển đổi DNNN thành DN thông thường thông qua cơ chế chuyển nhượng, mua bán CP.

1.2.2 Vai trò của DNNN

DNNN hiện đang được quan tâm đặc biệt vì vai trò và sứ mệnh của

chúng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Vai trò của DNNN bắt nguồn từ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang phấn đấu thực hiện. Đảng nhấn mạnh vai trò kinh tế Nhà nước với bộ phận chủ yếu là DNNN. Với tư cách là bộ phận nòng cốt của thành phần kinh tế công, DNNN đương nhiên giữ vị trí trọng yếu của kinh tế Nhà nước, vì thế có thể coi chúng có ý nghĩa quan trọng trong vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

Vai trò của hệ thống DNNN gắn liền với việc tham gia vào hoạt động kinh tế của Nhà nước. Vai trò này thể hiện trên ba khía cạnh: kinh tế, chính trị và xã hội. Nội dung của vai trò này được thể hiện như sau:

Thứ nhất, DNNN chi phối sự phát triển trong các lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa đối với sự phát triển ổn định của đất nước. Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: cung ứng các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, nhất là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, điện, nước, thông tin liên lạc,…), xã hội (giáo dục, y tế,…) và an ninh quốc phòng.

Thứ hai, DNNN là công cụ tạo ra sức mạnh vật chất để Nhà nước giữ vững sự ổn định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. DNNN là nguồn lực vật chất chủ yếu của Nhà nước, đóng góp quyết định cho ngân sách nhà nước. DNNN là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mở đường, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, lôi cuốn các DN thuộc các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo đi lên chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.

Thứ ba, DNNN góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường: những lĩnh vực mới, các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, công trình công cộng,… rủi ro cao, đòi hỏi vốn lớn, thu hồi chậm, lợi nhuận thấp là

những ngành cần thiết và tạo điều kiện cho phát triển sản xuất, nhưng các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư, hoặc không có khả năng đầu tư thì DNNN cần phải đi đầu mở đường, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.

Thứ tư, DNNN là lực lượng đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, chống sự lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế trong điều kiện mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới.

Thứ năm, DNNN mẫu mực trong việc thực hiện các chính sách xã hội, trợ cấp xã hội như tạo việc làm cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương; ở những khu vực khó khăn, kém phát triển, như biên giới, hải đảo, miền núi,…

1.3 CPH và bản chất của việc CP hoá DNNN

1.3.1. CPH và mục tiêu của việc CPH

a) Định nghĩa CPH

Thuật ngữ CPH xuất hiện ở Việt Nam cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, gắn với công cuộc cải cách DNNN.

Do tình hình kinh tế – xã hội có nhiều khó khăn trong những năm 1980 Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã phát triển công cuộc đổi mới trên nhiều mặt đời sống xã hôi, nhất là kinh tế. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lấn thứ VI Việt Nam bắt đầu tiến hành đường lối đổi mới và dần dần chuyển sang nền kinh tế văn hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khu vực DNNN (DNNN) là một bộ phận trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, đã bộc lộ nhiều yếu kém, cụ thể là: Cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn, cơ chế quản lý còn nhiều lúng túng, hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy không đáp ứng sản xuất. Không những thế còn là vật cản sự phát huy vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Một thời gian dài thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung và duy trì chế độ quan liêu, bao cấp làm cho các DNNN vừa thiếu tính năng động sáng

tạo vừa mang tính độc quyền cao. Quá trình đổi mới nền kinh tế quốc dân phải lấy điểm đột phá từ việc cải cách toàn diện DNNN.

Thực hiện đổi mới toàn diện để phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế được Đại hội Đảng VI (1986) khởi xướng - phương thức mà chính phủ áp dụng mạnh hiện nay là CPH DNNN. Xuất phát điểm của chủ trương này là việc phải làm sao để những DNNN có “chủ thực sự”, gắn chặt quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN (DN), Chính phủ chủ trương thực hiện chuyển đổi các DN thuộc sở hữu 100% của nhà nước sang hình thức công ty CP thông qua việc chia nhỏ giá trị của DN thành các phần bằng nhau và bán lại cho các nhà đầu tư dưới hình thức phát hành cổ phiếu...

Như vậy, CPH DNNN chính là quá trình chuyển DN thuộc sở hữu Nhà nước sang hình thức công ty CP thông qua quá trình chào bán các cổ phiếu chứng nhận quyền sở hữu DN cho các cổ đông. Hay có thể hiểu là thông qua quá trình CPH DNNN mà DN trước đây thuộc sở hữu 100% của Nhà nước được chuyển sang 1 loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, trong đó Nhà nước có thể là 1 cổ đông thậm chí Nhà nước có thể không còn là cổ đông trong DN đó. Có thể nói, quan niệm về CPH DNNN đã được thể hiện chính thức, đầu tiên trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng “Đổi mới tổ chức quản lý DNNN, phát huy cao độ quyền tự chủ của DN trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt chủ chương CPH 1 bộ phận DNNN để huy động thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy DN làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản thuộc sở hữu Nhà nước ngày càng tăng lên”.

Từ quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện sắp xếp và đổi mới DNNN. Hàng loạt giải pháp quan trọng được tiến hành như chuyển một số DNNN thành công ty CP, giao, bán, khoán, cho thuê DNNN. Giải pháp CPH đáp ứng những nhu cầu bức thiết của công cuộc cải cách DNNN.

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí