toàn xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Không những vậy, thông qua hoạt động xét xử đối với các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình đã tăng cường việc phổ biến tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân để họ nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, thông qua hoạt động xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm của ngành TAND đã phát hiện được những thiếu sót, hạn chế nhất định: để quá thời hạn chuẩn bị xét xử, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, bản án tuyên không rò ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự, thiếu người tham gia tố tụng, xác định tài sản chung, tài sản riêng để phân chia chưa đúng hoặc chưa bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự dẫn đến Tòa án cấp trên phải sửa, hủy bản án của Tòa án cấp dưới. Đặc biệt còn có một số vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình có tính chất phức tạp, có liên quan đến nhiều tài sản chung của gia đình, vợ chồng nên bị kéo dài nhiều năm, qua nhiều cấp xét xử ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của công dân. Đội ngũ Thẩm phán còn hạn chế về chuyên môn và thiếu kinh nghiệm xét xử đã làm giảm lòng tin của các đương sự, cũng như các chủ thể khác vào phán quyết của Tòa án. Do đó, trong hoạt động xét xử các vụ án nói chung và các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng phải bảo đảm cho các đương sự tìm thấy lẽ công bằng, tính nhân đạo, tin tưởng vào cơ quan Tòa án.
Thành phố Hà Nội là thủ đô của Việt Nam được coi là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa. Nền kinh tế càng phát triển thì các mâu thuẫn phát sinh ngày càng đa dạng và phức tạp đặc biệt những mâu thuẫn phát sinh trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong những năm qua số vụ án về hôn nhân và gia đình mà toàn ngành Tòa án nói chung và TAND thành phố Hà Nội nói riêng thụ lý đã tăng vượt bậc. Ngoài bảo đảm xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đúng với các quy định của pháp luật thì bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình luôn được lãnh đạo TAND thành phố Hà Nội quan tâm chỉ đạo. Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử của Toà án nói chung và bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc làm tấm gương cho toàn ngành Tòa án. Tuy
nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vấn đề bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND Thành phố Hà Nội còn nhiều bất cập gây ảnh hưởng đến uy tín cũng như chất lượng xét xử của TAND Thành phố Hà Nội.
Trong bối cảnh Thành phố Hà Nội đang tiếp tục thực hiện Chương trình cải cách Tư pháp theo Nghị quyết số 48/NQ – TW ngày 24/05/2005 của Ban chấp hành Trung Ương về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày 02/6/2005 của Ban chấp hành Trung Ương về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và thực hiện các Nghị quyết, chỉ đạo của Thành ủy, HĐND, UBND thành phố thì tăng cường bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử nói chung và trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng là yêu cầu bức thiết.
Xuất phát từ lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình - Qua thực tiễn TAND thành phố Hà Nội ” làm luận văn thạc sĩ luật học.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình - Qua thực tiễn TAND thành phố Hà Nội - 1
- Những Vấn Đề Cơ Bản Trong Hoạt Động Xét Xử Các Vụ Án Hôn Nhân Và Gia Đình
- Trình Tự Xét Xử Vụ Án Hôn Nhân Và Gia Đình Tại Tand Cấp Thành Phố Trực Thuộc Trung Ương
- Các Yếu Tố Bảo Đảm Quyền Công Dân Trong Hoạt Động Xét Xử Các Vụ Án Hôn Nhân Và Gia Đình
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình ở Việt Nam đã được các nhà nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể gồm một số các đề tài của các tác giả như: Hoàng Văn Hạnh “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết án hôn nhân và gia đình của TAND ở tỉnh Thái Nguyên” Luận văn thạc sỹ luật học, năm 2006; “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thừa Thiên Huế” Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Đào Thị Mai Hường năm 2010; “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Văn Cừ năm 2005; Vũ Thanh Tuấn “Một số vấn đề khi giải quyết việc hôn nhân và gia đình” Tạp chí Tòa án số 14 tháng 7/2007; Thủy Nguyên “Áp dụng Luật hôn nhân, gia đình khi giải quyết vụ án có yếu tố nước ngoài” Tạp chí Tòa án số 17 năm 2005; Đỗ Văn Chỉnh, Ly hôn có yếu tố nước ngoài. Pháp luật và thực tiễn. Tạp chí Tòa án nhân dân số 10 tháng 5/2007... Các nghiên cứu của các học giả trên đã đề cập đến vấn đề
giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình dưới góc độ về áp dụng pháp luật, giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Các nghiên cứu của các học giả trên đã đề cập đến vấn đề giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình dưới góc độ về áp dụng pháp luật, giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Vấn đề bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử nói chung và các vụ án hôn nhân và gia đình của các chuyên gia pháp lý và đặc biệt là những người làm công tác xét xử của ngành Tòa án nghiên cứu ở nhiều mức độ và khía cạnh khác nhau. Các bài viết trên các tạp chí khác như: Tạp chí Tòa án, Tạp chí Luật học; Tạp chí Kiểm sát; Tạp chí Dân chủ; Tạp chí Nhà nước và Pháp luật… cũng có nghiên cứu về một số khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến việc bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình. Đó là những tiền đề tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, các bài viết trên hoặc nghiên cứu chung về vấn đề bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử của TAND hoặc nghiên cứu về một khía cạnh nào đó của hoạt động xét xử các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Song đến nay, chưa có một công trình khoa học nào phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống dưới góc độ lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đặc biệt là tại TAND thành phố Hà Nội. Vì vậy đó chính là lý do để tôi chọn chủ đề này làm đề tài luận văn Cao học Luật của mình.
3. Nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rò một số vấn đề lý luận về quyền công dân, về hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình, bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.
- Phân tích thực trạng hoạt động bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình, phân tích nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế của bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình tại TAND thành phố Hà Nội;
- Từ đó đưa ra một số yêu cầu tăng cường bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình ở Việt Nam; đưa ra một số giải pháp chung và riêng, một số kiến nghị nhằm tăng cường bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.
Ý nghĩa luận văn:
- Có ý nghĩa thực tiễn góp phần tăng cường bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của Việt Nam nói chung và tại TAND thành phố Hà Nội nói riêng.
- Đóng góp cho công tác tăng cường chất lượng, hiệu quả xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của Việt Nam nói chung và TAND thành phố Hà Nội nói riêng.
- Đóng góp một phần vào thành quả của chương trình cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 48/NQ-TW, Nghị quyết số 49/NQ-TW tại Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng.
- Đồng thời, luận văn cung cấp cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, là tài liệu tham khảo cho những người trực tiếp làm công tác giải quyết các tranh chấp các vụ án hôn nhân và gia đình trong ngành TAND, công tác giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên Luật và không chuyên Luật.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi là một luận văn thạc sỹ Luật học thuộc chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đồng thời nghiên cứu thực tiễn vấn đề trên tại TAND thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phân tích, đối chiếu, so sánh, thống kê và tổng hợp; phương pháp phân tích quy phạm cũng được tác giả vận dụng để phân tích, bình luận nội dung của một số chế định.
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn đề cập khá toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình tại TAND thành phố Hà Nội trong bối cảnh thành phố Hà Nội đang tiếp tục phát huy hiệu quả của chương trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 48/NQ – TW và Nghị quyết số 49/NQ- TW. Với những kết quả mà luận văn đạt được, tác giả hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của Việt Nam nói chung và của TAND thành phố Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp và kiến nghị tăng cường bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1 . Những vấn đề cơ bản về quyền công dân
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền công dân
Mặc dù vấn đề công dân đã manh nha trong tư tưởng của Aritstốt nhưng phải đến thời điểm ra đời Nhà nước Cộng hòa Quý tộc chủ nô trong xã hội cổ đại La Mã vấn đề công dân mới xuất hiện rò nét. Vấn đề quyền công dân chỉ được bàn đến rộng rãi và phổ biến trong xã hội tư sản đặc biệt là qua các cuộc Cách mạng Tư sản và sự xuất hiện các Nhà nước Tư sản ở châu Âu thế kỷ XVII, XVIII, sau các cuộc Cách mạng Vô sản và sự xuất hiện Nhà nước XHCN thế kỷ XX.
Trải qua thời gian, vấn đề quyền công dân ngày càng được hoàn thiện cùng với sự phát triển của xã hội, của khoa học pháp lý. Tại Châu Âu đến cuối thế kỷ thứ XIX vấn đề quyền công dân bắt đầu được bàn đến rộng rãi và được ghi nhận trong các bản Hiến pháp. Điển hình là tại Đức, quyền công dân bắt đầu được ghi nhận trong Hiến pháp từ năm 1818 - 1819 (Hiến pháp Baria và Bađen năm 1818, Nurtemberg năm 1819). Khi đó, nước Đức còn đang ở trong thời kỳ quân chủ lập hiến. Đây là thời kỳ chuyển giao giữa chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa nên thời kỳ này đã có một sự dung hòa, thích nghi giữa trật tự pháp luật quân chủ tuyệt đối với những đòi hỏi về kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản mà trong đó, cái ảnh hưởng to lớn là những tư tưởng của chủ nghĩa tự do kinh tế. Vào những năm 50 của thế kỷ XX, quyền công dân được tiếp cận ở góc độ quyền bình đẳng với tư cách là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới - với sự ra đời của Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền và sự thể hiện tuyên ngôn này trong pháp luật quốc gia. Những năm 70, 80 của thế kỷ XX, quyền công dân được ghi nhận trong pháp luật quốc gia với tư cách là sự thể hiện các nội dung và quyền con người về quyền dân sự và chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa theo các Công ước về quyền dân sự và chính trị, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, 1976.
Tới thời điểm hiện nay, tùy theo mỗi quốc gia, mỗi chế độ chính trị khác nhau mà hệ thống các quyền công dân được thể hiện ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên xã hội càng phát triển vấn đề quyền công dân càng được coi trọng và bảo vệ. Đặc biệt với các nước hiện nay đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, thì vấn đề bảo đảm quyền công dân rất được coi trọng.
Tại Việt Nam, vấn đề quyền công dân lần đầu tiên được ghi nhận một cách cụ thể nhất tại Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta đã được Quốc hội thông qua. Với Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, những người dân nô lệ trước đây thực sự trở thành người chủ của đất nước, được bảo đảm các quyền tự do, dân chủ trên nhiều phương diện. Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam được bảo đảm các quyền tự do, dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật được ghi nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nước. Và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới về mọi phương diện.
Kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1946 về quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân, Hiến pháp năm 1959 đã có những bước phát triển mới trong việc quy định cụ thể hơn các quyền công dân đồng thời bổ sung thêm một số quyền công dân mới. Các quyền của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong Hiến pháp 1959 bao gồm: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, quyền tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, quyền tự do đi lại cư trú. Hiến pháp 1959 đã ghi nhận những thành tựu mới của Nhà nước dân chủ nhân dân trong việc hình thành và phát triển quan hệ lao động mới. Đạo luật cơ bản của Nhà nước không những quy định lao động là cơ sở phát triển kinh tế của đất nước, cơ sở nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân mà còn quy định đó là nghĩa vụ và danh dự của công dân (Điều 21 và Điều 32). Bằng quan điểm đó Hiến pháp 1959 đã xác định một quan điểm mới về lao động, với quan điểm này nhân dân Việt Nam vốn dĩ cần cù, sáng tạo phát triển, thêm tư chất đạo đức tốt đẹp của mình, coi lao động không những là nguồn gốc của cải xã hội, mà còn là nhu cầu của đời sống tinh thần của
nhân dân. Ngoài những quyền mà Hiến pháp 1946 quy định, Hiến pháp năm 1959 quy định thêm nhiều quyền mới như quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (Điều 32); quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác (Điều 34); quyền khiếu nại tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước (Điều 29).
Với sự ra đời Hiến pháp 1980 - bản Hiến pháp thứ ba và là Hiến pháp xã hội chủ nghĩa thứ hai của nước ta, các quy định về các quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân cùng với các bảo đảm pháp lí từng bước cải thiện đáng kể. So với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đã quy định thêm một số quyền mới của công dân như quyền tham gia quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội (Điều 56); Quyền khám và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61); Quyền có nhà ở (Điều 62); Quyền được học tập không phải trả tiền (Điều 60); Quyền của xã viên hợp tác xã được hưởng phụ cấp khi sinh đẻ (Điều 63)… Mặc dù, có những hạn chế nhưng so với Hiến pháp năm 1946 và 1959 nhưng quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp 1980 vẫn là một bước phát triển mới phong phú hơn, cụ thể hơn, rò nét hơn.
Tại bản Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì phần lớn các quy định về tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân được ghi nhận ở Hiến pháp 1980 đã được sửa đổi, mở rộng và quy định cụ thể hơn, đồng thời ghi nhận thêm những quyền mới nhằm đáp ứng nhu cầu của việc mở rộng hơn nữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phù hợp với sự vận động của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói so với các bản Hiến pháp trước, nhóm các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong Hiến pháp 1992 đó có bước phát triển đáng kể và tương đối hoàn thiện, thể hiện một quá trình phát triển liên tục về phương diện chính trị, pháp lí cũng như về phương diện kĩ thuật lập hiến Việt Nam.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 được Quốc hội (khóa XIII) thông qua tại kỳ họp thứ 6, gồm 11 chương, 120 điều có hiệu lực từ ngày 01/01/2014, giảm 01 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp