viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án TA, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng. Kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu thấy có vi phạm hoặc không còn cần thiết nữa [43].
Nguyên tắc này thể hiện bản chất nền dân chủ XHCN: Luôn vì con người, bảo vệ lợi ích của con người, tôn trọng và đề cao các quyền con người. Nguyên tắc thể hiện sự bình đẳng trước pháp luật của công dân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân đã được Hiến pháp quy định. Điều luật cũng chỉ rò trách nhiệm cá nhân của người tiến hành tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, điều đó có nghĩa là:
- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử và quản lý trại giam phải đối xử với bị can, bị cáo, người bị kết án như một con người trong xã hội, nghiêm cấm việc truy bức, nhục hình...
- Khi cần thiết CQĐT, VKS, TA có quyền quyết định những BPNC đối với bị can, bị cáo. Xác định sự cần thiết phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và yêu cầu cụ thể của vụ án chứ không phải ý thức chủ quan của con người. Các biện pháp đã áp dụng mang tính chất thời điểm nhất định cho nên nếu thấy rò ràng không còn cần thiết nữa thì phải xem xét hủy bỏ các biện pháp đó như thay đổi BPNC, trả tự do...
+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân Điều 6 BLTTHS quy định: "Không ai có thể bị bắt, nếu không có quyết
định của TA, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng quy định của luật này. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình" [43].
Nguyên tắc này được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là nguyên tắc trung tâm xuyên suốt khi thực hiện việc áp dụng các BPNC. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, là một trong các quyền tự do cá nhân quan trọng nhất của con người. Việc bảo đảm quyền này được BLTTHS quy định và được coi là nguyên tắc cơ bản của hoạt động TTHS. Nguyên tắc này đòi hỏi các quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục áp dụng các BPNC phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt trên thực tiễn.
Tất cả các trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam phải tuân thủ các quy định có liên quan trong BLTTHS về thẩm quyền, căn cứ và thủ tục thi hành. Tất cả các trường hợp áp dụng BPNC không tuân theo quy định của luật TTHS đều là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền dân chủ của công dân, người có hành vi trái pháp luật đó cần phải được xử lý nghiêm minh tùy theo tính chất, mức độ cụ thể để coi là vi phạm hành chính hay là tội phạm hình sự.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân còn được BLTTHS bảo vệ ở việc không được truy bức nhục hình kể cả khi áp dụng biện pháp bắt người, tạm giữ và tạm giam. Người bị áp dụng BPNC bị hạn chế một số quyền tự do, song người có thẩm quyền áp dụng không được xâm phạm thân thể, không được xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người bị áp dụng.
+ Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (điều 7)
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Pháp Luật Quốc Tế Và Luật Tths Của Một Số Nước Trên Thế Giới Và Những Giá
- Những Giá Trị Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Pháp Luật Quốc Tế Và Luật Tths Của Một Số Nước Trên Thế
- Thực Trạng Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Luật Tths Việt Nam Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk
- Thực Trạng Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Luật Tths Việt Nam Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk Liên Quan Tới Bảo Đảm Quyền Con Người
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 11
- Quan Điểm Tăng Cường Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Bắt, Tạm Giữ, Tạm Giam Theo Luật Tths Việt Nam Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản là những quyền cá nhân thiêng liêng được bảo hộ tuyệt đối trong xã hội dân chủ, tiến bộ. Trong hệ thống pháp luật quốc gia, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân luôn luôn được bảo vệ tuyệt đối. Quyền công dân được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta. Đây là nguyên tắc hiến định được thể hiện trong luật TTHS. Nguyên tắc quy định:
- Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Đây là những quyền con người cơ bản, quan trọng nhất của công dân được pháp luật bảo hộ;
- Nghiêm cấm hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân trong hoạt động TTHS nói chung và xét xử nói riêng của cơ quan, người có thẩm quyền; mọi hành vi vi phạm đều bị xử lý theo pháp luật bằng các biện pháp như xử lý kỷ luật, buộc bồi thường hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự;
- BLTTHS 2003 đã có bổ sung quan trọng quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ người tham gia tố tụng và người thân thích của họ khi do tham gia tố tụng mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản. Điều này không chỉ xuất phát từ nhu cầu bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân khi tham gia tố tụng, mà còn xuất phát từ thực tiễn khi thời gian gần đây, việc trả thù người tham gia tố tụng trong các vụ án nói chung, vụ án hình sự nói riêng đang xảy ra tương đối phổ biến, nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng.
+ Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của TA
Điều 9 BLTTHS quy định “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật”. Đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng không chỉ trong TTHS nước ta mà TTHS quốc tế. Một người chỉ được coi là có tội khi đối với người đó đã có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật. Hay nói cách khác chính xác hơn, khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của TA đối với một người thì người đó được coi là không có tội. TA là cơ quan có thẩm quyền duy nhất có quyền phán xử một người có tội bằng bản án kết tội theo trình tự, thủ
tục mà BLTTHS quy định. Người phạm tội chỉ phải chịu hình phạt và các hậu quả pháp lý khác khi bản án đó của TA có hiệu lực pháp luật. Nguyên tắc này thể hiện vai trò trung tâm, đặc biệt quan trọng của TA trong việc bảo đảm quyền con người.
+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điều 11)
Một số chủ thể tham gia tố tụng, bị hạn chế các quyền con người như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại đó là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Những người này có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Các cơ quan tiến hành tố tụng như CQĐT, VKS, TA có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của BLTTHS. Từ quy định về quyền bào chữa của BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 đã quy định thêm một chủ thể có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa đó là người bị tạm giữ, đồng thời với việc đưa vào luật một chủ thể mới có quyền bào chữa, BLTTHS 2003 cũng đã quy định thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa sớm hơn so với BLTTHS 1988, đó là người bào chữa được tham gia tố tụng ngay từ khi có quyết định tạm giữ. Đây là một quy định rất tiến bộ, bảo đảm cho việc người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi bị tạm giữ đã có thể thực hiện ngay các quyền dân chủ cơ bản này để tự bảo vệ cho bản thân họ.
+ Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (điều 29) và nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra (điều 30)
Đây là hai nguyên tắc cơ bản rất quan trọng mới được bổ sung vào BLTTHS, việc bổ sung hai nguyên tắc này đã thể chế hóa chủ trương nhất
quán của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta, đó là kiên quyết khắc phục các trường hợp oan, sai trong hoạt động TTHS và bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại do các cơ quan tiến hành tố tụng và những người có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Chính từ quy định của các nguyên tắc này, đòi hỏi việc bắt, tạm giữ, tạm giam càng cần phải cẩn trọng, chỉ trường hợp nào thực sự cần phải bắt, phải tạm giữ, tạm giam thì mới bắt, giữ, giam, bởi vì phần lớn các trường hợp oan, sai nghiêm trọng đều bắt đầu từ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc này.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS (điều 31)
Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những biện pháp quan trọng để phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động của người cũng như cơ quan tiến hành tố tụng và cũng là biện pháp hữu hiệu để công dân, cơ quan, tổ chức sử dụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong TTHS. Vì vậy, BLTTHS quy định bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS là nguyên tắc cơ bản của TTHS. Nguyên tắc quy định:
- Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo việc làm trái pháp luật trong TTHS của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành TTHS hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó;
- Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo theo trình tự, thủ tục và thẩm quyền mà BLTTHS quy định; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục. Khác với nguyên tắc này được quy định trong BLTTHS 1988, nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS được quy định trong BLTTHS 2003 cụ thể hơn, chính xác hơn. BLTTHS 2003 đã dành một chương riêng để cụ thể hóa nguyên tắc này, quy định cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TTHS.
Thứ hai, quy định về địa vị pháp lý của người tiến hành tố tụng và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
BLTTHS 2003 quy định rất rò ràng, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng như Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án TA, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký TA.
Đối với người có chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan tiến hành tố tụng, bước đầu BLTTHS đã có sự phân biệt nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm chung và nhiệm vụ, quyền hạn khi trực tiếp thực hiện hoạt động tố tụng để giải quyết vụ án hình sự cụ thể; phân biệt nhiệm vụ, quyền hạn của những người này với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm. Cụ thể là:
- Khoản 1 điều 34 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT trong TTHS; khoản 2 điều 34 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT khi thực hiện việc điều tra vụ án hình sự cụ thể. Còn điều 35 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên khi thực hiện điều tra vụ án hình sự;
- Khoản 1 điều 36 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS trong TTHS; khoản 2 điều 36 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự cụ thể. Còn điều 37 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự cụ thể;
- Khoản 1 điều 38 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án trong TTHS; khoản 2 điều 38 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự cụ thể. Còn điều 39 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong giải quyết vụ án hình sự; điều 40 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm trong giải quyết vụ án hình sự; điều 41 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thư ký TA. Việc quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng một mặt ngăn ngừa những người đó lạm dụng quyền hạn của mình, mặt khác bảo đảm cho công dân nói chung, người tham gia tố tụng nói riêng giám sát được hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Ngoài ra, BLTTHS 2003 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung đối với địa vị tố tụng của những người tham gia tố tụng theo hướng tăng thêm quyền của những người tham gia tố tụng để họ có đủ cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng. Cụ thể là:
- Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình; được biết mình bị tạm giữ, bị khởi tố, bị truy tố về tội gì; được trình bày lời khai, đưa ra chứng cứ và các yêu cầu; có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; được khiếu nại không chỉ đối với quyết định mà cả đối với hành vi tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
- Bảo đảm quyền bào chữa là một trong những vấn đề quan trọng trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTHS, trong BLTTHS 2003 người làm luật cũng đã có những bổ sung quan trọng khi quy định địa vị tố tụng của người bào chữa. BLTTHS quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng phải cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho người bào chữa, nếu từ chối thì phải nêu rò lý do. Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có
quyết định tạm giữ; được xem các biên bản về hoạt động tố tụng mà mình tham gia và xem các quyết định tố tụng liên quan đến người được bào chữa; người bào chữa được thu thập chứng cứ, sao chụp tài liệu liên quan; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (điều 56, 58). Đồng thời, để nâng cao trách nhiệm của người bào chữa đối với bị cáo và đối với việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, BLTTHS quy định họ phải có mặt theo giấy triệu tập của TA; không được mua chuộc, xúi giục, cưỡng ép người khác khai báo gian dối; không được tiết lộ bí mật điều tra hoặc sử dụng tài liệu liên quan đến vụ án vào mục đích khác xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân (điều 58).
Thứ ba, bảo đảm quyền con người thông qua các quy định của BLTTHS về mục đích, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng được áp dụng các biện pháp ngăn chặn, trong đó có các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Để tránh việc lợi dụng, lạm dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khi áp dụng các biện pháp có nguy cơ cao xâm phạm đến quyền con người BLTTHS quy định chặt chẽ mục đích, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng.
Mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn
Điều 79 BLTTHS quy định biện pháp ngăn chặn được áp dụng với hai mục đích: Ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật; Tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu huỷ chứng cứ,