Hạn Chế Của Nghiên Cứu Và Đề Xuất Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo 72837


(Bảng 5.6). Do đó, các NHTM Việt Nam cần tăng quy mô vốn chủ sở hữu và nâng cao hệ số an toàn vốn theo qui định của pháp luật và chuẩn mực quốc tế.

Để tăng vốn chủ sở hữu, các NHTM Việt Nam có thể thực hiện bằng cách giữ lại lợi nhuận ròng hàng năm, tăng vốn góp của cổ đông hiện hữu, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn (việc phát hành cổ phiếu để tăng vốn có thể thực hiện phát hành riêng cho các nhà đầu tư chiến lược, hoặc phát hành rộng rãi ra công chúng), hoặc có thể tiến hành sáp nhập và mua lại các ngân hàng nhỏ để hình thành các ngân hàng có tiềm lực tài chính lớn hơn. Tuy nhiên, việc tăng vốn chủ sở hữu cần thực hiện theo lộ trình phù hợp với chiến lược phát triển của từng ngân hàng, qui định pháp lý về an toàn hoạt động của SBV, và đảm bảo cân đối giữa chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu và tỷ suất lợi nhuận hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra, để đảm bảo hệ số an toàn vốn bên cạnh việc tăng quy mô vốn chủ sở hữu, các NHTM cần lưu ý đến vấn đề điều chỉnh quy mô tài sản có rủi ro của ngân hàng.

Bảng 5.6: Tỷ lệ vốn tự có/tài sản có rủi ro trung bình các quốc gia ký CPTPP

Quốc gia

2018

2019

Singapore

16,1%

16,5%

Nhật Bản

15,5%

16,0%

New Zealand

12,8%

13,9%

Canada

14,3%

14,6%

Australia

12,7%

14,0%

Malaysia

15,4%

16,6%

Chile

13,1%

13,4%

Brunei

21,2%

20,5%

Mexico

15,4%

15.1%

Việt Nam

12,7%

12,5%

Peru

14,2%

14,9%

Nguồn: Diễn đàn Kinh tế Thế giới.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Ảnh hưởng của thâm nhập ngân hàng nước ngoài đến cạnh tranh và hiệu quả của các NHTM Việt Nam - 20


Vốn chủ sở hữu thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản của ngân hàng, nhưng giữ vai trò là tấm đệm chống đỡ rủi ro của NHTM. Vốn chủ sở hữu cũng góp


phần quyết định tới hệ số an toàn vốn của ngân hàng, nhất là trong bối cảnh SBV đang triển khai áp dụng Basel II tiêu chuẩn, và tiến tới tiêu chuẩn Basel II nâng cao. Việc tăng vốn chủ sở hữu sẽ giúp các NHTM mở rộng quy mô hoạt động, từ đó gia tăng lợi nhuận tạo nguồn lực để phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả, và góp phần củng cố vị thế cạnh tranh trên thị trường.

(ii) Nâng cao năng lực quản trị


Tăng cường năng lực tài chính trên cơ sở tăng quy mô vốn chủ sở hữu là cần thiết để tăng năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu mở cửa thị trường ngân hàng trong bối cảnh có sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh là các NHNNg sở hữu ưu thế về nguồn vốn ngoại tệ, mô hình kinh doanh, khả năng quản trị rủi ro, thương hiệu và kinh nghiệm hoạt động trên thị trường quốc tế, các NHTM trong nước cần đặc biệt chú trọng đến năng lực quản trị.

Năng lực quản trị của các NHTM Việt Nam được cho là còn nhiều hạn chế. Hoạt động quản trị không được quan tâm đúng mức, không có sự phân công rõ ràng, thiếu các công cụ kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các mục tiêu, chiến lược dài hạn. Việc cung cấp thông tin và dự báo xu hướng thị trường trong nước và thế giới cho hoạt động quản trị của các NHTM chưa kịp thời và còn nhiều hạn chế. Do đó, các NHTM Việt Nam cần thực hiện các giải pháp để nâng cao năng lực quản trị đặc biệt là quản trị rủi ro.

Thứ nhất, hoàn thiện mô hình tổ chức của ngân hàng. Thực tế ở nhiều ngân hàng vẫn còn xảy ra tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa hội đồng quản trị và ban điều hành, tiêu chuẩn và cơ cấu thành viên hội đồng quản trị còn nhiều bất cập làm giảm năng lực quản trị của ngân hàng. Do đó, các NHTM Việt Nam cần tập trung hoàn thiện mô hình tổ chức ngân hàng theo khuyến nghị của Basel như cần qui định rõ cấu trúc tổ chức của ngân hàng, cơ cấu hội đồng quản trị, trách nhiệm của hội đồng quản trị, các thành viên hội đồng quản trị phải có đầy đủ trình độ và năng lực, cơ chế phân cấp, phân quyền giữa hội đồng quản trị và ban điều hành phải rõ ràng, minh bạch. Đối với ban điều hành ngân hàng cần phải đảm bảo tất cả các hoạt


động của ngân hàng phải hướng đến việc thực hiện chiến lược kinh doanh, và chính sách rủi ro mà hội đồng quản trị đã phê duyệt.

Thứ hai, áp dụng mô hình quản trị rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Một trong những vấn đề bức thiết của quản trị ngân hàng hiện nay là quản trị rủi ro. Hiện nay, các NHTM Việt Nam chủ yếu tập trung vào công tác quản trị rủi ro tín dụng, trong khi các rủi ro phát sinh liên quan đến công nghệ như rủi ro trong các giao dịch ngân hàng trực tuyến chưa được chú ý. Hệ thống cung cấp thông tin trong ngân hàng chưa đáp ứng được công tác phân tích và xử lý rủi ro. Hoạt động quản rủi ro chú trọng nhiều đến tính tuân thủ các quy định, quy trình nghiệp vụ, chưa quan tâm đến việc phân tích, đánh giá và dự báo nhằm giảm thiểu các rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các bộ phận quản trị, kiểm soát thiếu tính độc lập và việc kiểm soát lẫn nhau chưa thật sự đi vào bản chất, mang tính hình thức. Điều này cho thấy hiệu quả của công tác quản trị rủi ro chưa cao và việc hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro của các NHTM vẫn phải tiếp tục thực hiện.

Quản trị rủi ro đòi hỏi các nhà quản lý đáp ứng các nhu cầu thông qua nhận dạng các loại rủi ro chủ yếu, áp dụng các biện pháp rủi ro hoạt động, xây dựng hệ thống các công việc để giám sát vị thế rủi ro có kết quả.

Basel khuyến nghị rằng ngân hàng cần tập trung quản trị rủi ro hiệu quả, thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ. Hoạt động quản trị rủi ro phải được tiến hành trên phạm vi toàn hệ thống để kịp thời theo dõi và phát hiện các rủi ro, mỗi bộ phận kinh doanh phải phải có quy định quản trị rủi ro chi tiết cho bộ phận mình, công tác quản trị rủi ro phải được truyền thông liên tục trong nội bộ ngân hàng, các cảnh báo của kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập cần phải được hội đồng quản trị và ban điều hành sử dụng một cách hiệu quả. Như vậy, các NHTM Việt Nam cần tham khảo các khuyến nghị của Basel để tiếp tục hoàn thiện mô hình, chính sách và quy trình quản trị rủi ro của ngân hàng, đặc biệt là là rủi ro nợ xấu, rủi ro thanh khoản và rủi ro tác nghiệp.

Thứ ba, ứng dụng công nghệ vào công tác quản trị ngân hàng. Công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng trong công tác quản trị ngân hàng. Ứng dụng công nghệ


ngân hàng hiện đại giúp ngân hàng có thể thu thập thông tin cung cấp cho công tác dự báo, phân tích nhằm phục vụ cho công tác quản trị. Ngoài ra, công nghệ cho phép các ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động với mức độ sai sót thấp nhất hay phát hiện kịp thời các sự cố, gian lận nhằm giảm thiểu rủi ro. Cuộc cách mạng công nghệ

4.0 với thành tựu của trí tuệ nhân tạo có thể ứng dụng trong quản lý danh mục rủi ro, quản lý khách hàng, quản lý cơ sở dữ liệu ở mức độ chính xác và tốc độ xử lý nhanh, cung cấp đủ lượng thông tin, dữ liệu cần thiết phục vụ cho các mô hình phân tích, dự báo như đánh giá hành vi khách hàng, các mô hình dự đoán, cảnh báo rủi ro. Để có thể ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 vào các sản phẩm dịch vụ cũng như quy trình hoạt động của mình, các NHTM cần phải triển khai đồng bộ các dự án công nghệ thông tin, các dự án chuyển đổi.

5.4.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động


Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy rằng trong giai đoạn 2009 – 2019 hiệu quả của các NHTM tuy đã có những chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều mặt còn hạn chế. Những chuyển biến tích cực trong hiệu quả của các NHTM đó là hiệu quả kỹ thuật (TE) trung bình được duy trì ở mức khá cao đạt 95% cho thấy các NHTM Việt Nam đã chú trọng gia tăng năng lực quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của mình để đạt mức hiệu quả kỹ thuật tối ưu. Sau khoảng thời gian sụt giảm từ 2009 đến 2015, tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên tài sản (ROA) của Việt Nam đã tăng dần trở lại từ 0,51% năm 2015 lên 1,23% năm 2019.

Số liệu Bảng 5.7 cho thấy tỷ trọng thu nhập lãi trung bình so với tổng thu nhập trong giai đoạn 2009 – 2019 chiếm đến 90,23% tổng thu nhập, và tỷ trọng thu nhập ngoài lãi chiếm tỷ trọng rất nhỏ trung bình 9,77%. Mức tăng trung bình của thu nhập lãi là 16,58%, trong khi thu nhập ngoài lãi tăng trung bình 15,52%/năm, xét về số tuyệt đối thì quy mô thu nhập từ lãi gấp 9,05 lần so với thu nhập ngoài lãi của các NHTM Việt Nam. Trong các yếu tố đầu vào của hoạt động ngân hàng thì chi phí lãi chiếm tỷ trọng cao nhất với 74,29%, chi phí nhân viên chiếm 12,94% và chi phí vật chất khác chiếm 12,77% tổng chi phí. Mức tăng trung bình của chi phí lãi là 15,51%, chi phí nhân viên là 17,41%, và chi phí vật chất khác là 16,73%.


Bảng 5.7: Tỷ lệ đầu vào, đầu ra trung bình giai đoạn 2009 - 2019


Năm

Tỷ lệ thu nhập lãi

Tỷ lệ thu ngoài lãi

Tỷ lệ chi phí lãi

Tỷ lệ chi phí nhân

viên

Tỷ lệ chi phí khác

2009

86,85%

13,15%

75,61%

12,88%

11,51%

2010

89,76%

10,24%

78,34%

11,03%

10,63%

2011

93,68%

6,32%

80,58%

9,54%

9,88%

2012

94,80%

5,20%

78,62%

10,36%

11,02%

2013

91,74%

8,26%

75,19%

11,50%

13,31%

2014

90,02%

9,98%

72,35%

12,98%

14,66%

2015

90,47%

9,53%

69,37%

14,92%

15,71%

2016

90,42%

9,58%

70,57%

14,70%

14,73%

2017

88,87%

11,13%

71,54%

14,92%

13,54%

2018

88,09%

11,91%

72,05%

14,77%

13,18%

2019

87,86%

12,14%

73,02%

14,64%

12,34%

Trung bình

90,23%

9,77%

74,29%

12,94%

12,77%

Nguồn: Tác giả tính toán từ mẫu dữ liệu nghiên cứu.




Như vậy, thu nhập của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu 2009

– 2019 chủ yếu đến từ hoạt động tín dụng, và tốc độ tăng trung bình năm của thu nhập lãi vẫn cao hơn thu nhập ngoài lãi. Tuy nhiên, trong các yếu tố đầu vào thì tốc độ tăng trung bình của chi phí nguồn nhân lực là cao nhất, tiếp đến là tốc độ tăng trung bình của chi phí vật chất khác, thấp nhất là tốc độ tăng trung bình của chi phí lãi. Điều này chứng tỏ mặc dù các NHTM Việt Nam vẫn tập trung vào hoạt động tín dụng, nhưng đã chú ý đầu tư vào nguồn nhân lực và xem nhân lực là yếu tố then chốt quyết định sự thành công trong quá trình cạnh tranh của ngân hàng.

Dựa vào kết quả hồi quy Mô hình 3.4 và Mô hình 3.6, một số đánh giá trên đây về hiệu quả của các NHTM Việt Nam kết hợp với định hướng phát triển ngành ngân hàng, luận án đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả của các NHTM Việt Nam như sau:


(i) Thay đổi cơ cấu nguồn thu theo hướng tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động phi tín dụng

Thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng quá lớn và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng, do đó, các NHTM Việt Nam cần thay đổi mô hình kinh doanh theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng. Việc phát triển dịch vụ phi tín dụng góp phần đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, từ đó thu hút và mở rộng đến nhiều đối tượng khách hàng, đáp ứng nhu cầu thị trường, phân tán rủi ro cho ngân hàng, củng cố vị thế của các NHTM trên thị trường, và đảm bảo các NHTM phát triển bền vững, góp phần thực hiện thành công mục tiêu đưa tỷ trọng thu nhập dịch vụ của ngành ngân hàng Việt Nam lên mức 17% vào năm 2025.

Giải pháp cho mục tiêu tăng quy mô của thu nhập hoạt động dịch vụ phi tín dụng là ngân hàng có chiến lược phát triển các sản phẩm dịch vụ phi tín dụng trong bối cảnh cách mạng 4.0, ứng dụng công nghệ Fintech, sử dụng thiết bị di động, sự phát triển của công nghệ số đặc biệt là các dịch vụ hiện đại như internet banking, ngân hàng số, sử dụng mã QR, ví điện tử… Bên cạnh đó, các NHTM cần tập trung đầu tư công nghệ ngân hàng để hỗ trợ dịch vụ, tăng tốc độ xử lý giao dịch, tăng mức độ phòng ngừa rủi ro, nâng cao mức độ an toàn cho khách hàng, phát triển thêm một số ứng dụng mới tiện ích cho khách hàng, tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ trên thiết bị di động và mạng internet.

(ii) Phát triển nguồn nhân lực


Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả kỹ thuật của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu đạt khá cao, trong đó tốc độ tăng trung bình chi phí nguồn nhân lực đạt cao nhất trong các yếu tố đầu vào. Điều này chứng tỏ nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng đối với hiệu quả hoạt động ngân hàng. Vì vậy, các NHTM Việt Nam cần có các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng và tạo lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập.


Để phát triển nguồn nhân lực, các NHTM tập trung triển khai các nội dung theo Quyết định số 1537/QĐ-NHNN ngày 17/7/2019 của SBV về việc Phê duyệt Ban hành Kế hoạch triển khai chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 như: Xây dựng các tiêu chuẩn nghề nghiệp; Tăng cường hợp tác giữa đơn vị đào tạo và ngân hàng; Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; Đào tạo lực lượng cán bộ nắm bắt được tiến bộ khoa học công nghệ và ứng dụng vào thực tiễn của ngân hàng; Xây dựng đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin tại ngân hàng; Tăng cường hợp tác, tận dụng hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật, đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu từ các tổ chức quốc tế.

Khi triển khai thực hiện các nội dung theo chiến lược phát triển nguồn nhân lực của SBV, các NHTM cần chú ý các vấn đề cụ thể sau:

Về công tác tuyển dụng, các NHTM cần quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực cả về trình độ nghiệp vụ ngân hàng, kỹ năng vận hành công nghệ số, tính tuân thủ về quy trình vận hành cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, và các vấn đề về đạo đức nghề nghiệp. Để thu hút và giữ chân lực lượng nhân sự chất lượng cao, ngoài chế độ đãi ngộ, phúc lợi, lương thưởng hấp dẫn, các ngân hàng cần đáp ứng kỳ vọng phát triển nghề nghiệp bằng cách xây dựng một lộ trình thăng tiến hợp lý, tăng quyền tự quyết, phát huy tính sáng tạo và linh hoạt trong văn hóa và tổ chức doanh nghiệp.

Trong công tác đào tạo, các NHTM nên thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về nghiệp vụ và công nghệ, đào tạo kỹ năng mềm, kỹ năng tư duy, suy nghĩ sáng tạo, đột phá, khả năng giải quyết vấn đề trong tình huống vượt ngoài phạm vi của quy định và tiền lệ đã có. Điều này cần được đặc biệt chú trọng ở cán bộ quản lý cấp trung và cấp cao, bởi đây là lực lượng then chốt cho việc triển khai kế hoạch cải cách và thích ứng với sự thay đổi trong bối cảnh mà chuyển đổi số đã trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của ngành ngân hàng.

Ngoài ra, trong bối cảnh xu thế số hóa, tự động hóa sẽ yêu cầu các NHTM vừa phải cắt giảm nhân sự giao dịch truyền thống, vừa yêu cầu một lượng lớn nhân sự có khả năng làm chủ công nghệ và yêu cầu các kỹ năng hoàn toàn mới, các NHTM Việt


Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp về nhân sự để chuyển đổi mô hình hoạt động và kinh doanh thành công.

(iii) Tăng quy mô hoạt động

Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô ngân hàng có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu 2009 – 2019. Việc mở rộng quy mô tài sản và quy mô mạng lưới hoạt động sẽ tạo lợi thế về kênh phân phối sản phẩm dịch vụ và khả năng tiếp cận khách hàng vượt trội, đặc biệt là tại các địa bàn bên ngoài các thành phố lớn. Giải pháp sáp nhập và hợp nhất sẽ giúp các NHTM tăng quy mô, từ đó tận dụng tốt ưu thế nhờ quy mô để giảm chi phí và gia tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng.


5.5. HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Mặc dù luận án đã đạt được mục tiêu đã đề ra, tuy nhiên do thiếu dữ liệu nghiên cứu nên nghiên cứu này có một số hạn chế như sau:

Do thiếu thông tin dữ liệu về chi nhánh NHNNg nên nghiên cứu không tiến hành kiểm tra ảnh hưởng của phương thức thâm nhập của NHNNg đến cạnh tranh và hiệu quả của các NHTM Việt Nam.

Trong giai đoạn nghiên cứu 2009 – 2019 có khoảng thời gian 2009 - 2011, các chi nhánh NHNNg bị giới hạn trong việc mở chi nhánh và do không có thông tin dữ liệu về quá trình thành lập chi nhánh của các NHTM trong nước và NHNNg nên nghiên cứu không sử dụng phương pháp không gian phân bổ để đo lường thâm nhập của NHNNg tại Việt Nam.

Trong giai đoạn nghiên cứu, hệ thống NHTM Việt Nam trải qua nhiều biến động với làn sóng sáp nhập, hợp nhất, một số ngân hàng bị SBV mua lại nên nghiên cứu không thể phân nhóm các NHTM dựa trên tiêu chí cụ thể để phân tích ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến cạnh tranh và hiệu quả theo nhóm các NHTM Việt Nam.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 11/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí