Sự Cần Thiết Của Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Hình Sự Và Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Án Treo

- Đối với người bị kết án họ cho rằng bản án tuyên xong như vậy là đã xong vì vậy một thực tế sau khi bản án được tuyên xong thì người bị kết án gần như hoàn toàn không thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời gian thử thách.

- Hồ sơ lưu trữ người bị kết án tù cho hưởng án treo gần như không có, không được quản lý đầy đủ theo quy định của pháp luật chính từ đó sẽ dẫn đến tình trạng trong trường hợp nếu người bị kết án mà phạm tội mới thì việc xác minh vấn đề xóa án tích như thế nào gặp rất nhiều khó khăn và không chính xác.

- Một vấn đề mới đặt ra là nếu người bị kết án vi phạm điều kiện trong thời gian thử thách về lĩnh vực quản lý nhà nước đối với người bị kết án thì hậu quả pháp lý như thế nào thì thực tế chúng ta chưa đặt ra chính vì vậy mà ý nghĩa cũng như tác dụng của chế định án treo trong Luật hình sự Việt Nam ta chưa thực sự mang lại hiệu quả.

2.2.3. Các nguyên nhân cơ bản

Những hạn chế như đã nêu trên trong quá trình vận dụng chế định án treo phần nào đã làm giảm đi ý nghĩa và hiệu quả thực sự của chế định này làm cho chế định án treo chưa phát huy được tác dụng là nhằm giáo dục người phạm tội ngoài xã hội nhưng vẫn bảo đảm sự răn đe của pháp luật đối với họ.

Những tồn tại nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân từ áp dụng luật pháp và hướng dẫn áp dụng pháp luật và nguyên nhân từ phía người làm công tác pháp luật.

Thứ nhất, nguyên nhân từ góc độ hướng dẫn áp dụng pháp luật: Hệ thống văn bản hướng dẫn chưa cụ thể dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các Tòa.

Về các tình tiết giảm nhẹ, khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định "... các tình tiết giảm nhẹ..." mà không nói cụ thể là các tình tiết giảm nhẹ này được quy định ở đâu, thuộc loại nào. Mặc dù khoản 1 Điều 46

Bộ luật hình sự đã quy định chi tiết các tình tiết giảm nhẹ và Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về một số tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên vẫn có nhiều tình tiết còn chưa được quy định hoặc hướng dẫn thật cụ thể. Tình tiết quy định tại điểm b Điều 46 "người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả" thì việc bồi thường sửa chữa đến đâu mới áp dụng tình tiết này, cần phải sửa chữa xong hay bồi thường hết không? Hay bao nhiêu phần trăm? Tại điểm e khoản 1 Điều 46 "phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn..." vậy người như thế nào thì được coi là có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn? Tại điểm g khoản 1 Điều 46 "phạm tội gây thiệt hại không lớn" lấy mốc giới nào để xác định là thiệt hại không lớn? Điểm h khoản 1 Điều 46 "Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng" vậy đã được xóa án tích thì có được coi là phạm tội lần đầu không? Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng có đồng nghĩa với phạm vào tội thuộc loại ít nghiêm trọng theo quy định của Điều 8 Bộ luật hình sự không? Điểm k khoản 1 Điều 46 như thế nào là "phạm tội do lạc hậu" chỉ căn cứ vào trình độ văn hóa có đủ không? Điểm p khoản 1 Điều 46 "người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải" đây là tình tiết hay được sử dụng quanh co chối tội, chỉ đến khi Kiểm sát viên và người bị hại, người làm chứng đưa ra đầy đủ các chứng cứ, biết không thể chối cãi nên người phạm tội mới cố tỏ ra thành khẩn, ăn năn thì có được hưởng tình tiết giảm nhẹ này không?

Tất cả những quy định chưa rò, chưa cụ thể trên đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, vướng mắc trong quá trình xét xử của Tòa án nói chung và trong việc xem xét các tình tiết giảm nhẹ như là một căn cứ (điều kiện) để cho người bị phạt tù hưởng án treo như đã phân tích.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 quy định khi xem xét cho hưởng án treo Tòa án căn cứ vào "các tình tiết giảm nhẹ" và Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn là người phạm tội

phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có ít nhất một tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự nhưng lại không quy định phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ thuộc loại nào, vì thực tế có thể người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng đều là những tình tiết không thể hiện được khả năng tự cải tạo của họ, vì vậy không có ý nghĩa nhiều trong việc xem xét cho hưởng án treo. Nếu chỉ căn cứ vào những tình tiết giảm nhẹ thuộc loại này mà cho người phạm tội hưởng án treo thì khả năng họ lại tiếp tục phạm tội là rất lớn. Theo quan điểm của chúng tôi luật nên quy định chỉ người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ thể hiện khả năng tự giáo dục, cải tạo thì mới có thể được xem xét cho hưởng án treo, còn nhiều tình tiết giảm nhẹ khác đã được xem xét khi quyết định hình phạt nay chỉ được xem xét với ý nghĩa tham khảo.

Án treo và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương - 10

Về điều kiện "không phải bắt chấp hành hình phạt tù" là một điều kiện mở và phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm tình hình tội phạm ở mỗi địa phương, phụ thuộc vào ý thức chủ quan của những người có quyền đưa ra phán quyết nếu không thực sự công tâm khách quan đánh giá đúng bản chất từng vụ việc đặt trong một bối cảnh cụ thể của một con người, địa phương cụ thể thì sẽ không hợp lý, chính vì vậy trên thực tế vẫn có những bản án cho những người phạm tội môi giới mại dâm, phạm các tội về đánh bạc và nhiều bản án cho những người phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển giao thông đường bộ được hưởng án treo. Do vậy, không phù hợp yêu cầu chống và phòng ngừa tội phạm và không được dư luận đồng tình ủng hộ, không có tác dụng răn đe, phòng ngừa đối với chính bản thân người phạm tội cũng như những người khác, làm cho dư luận trong quần chúng nhân dân thiếu tin tưởng vào sự nghiêm minh của pháp luật.

Thứ hai, nguyên nhân từ phía cơ quan áp dụng pháp luật, cụ thể nhất ở đây phải nói tới đội ngũ các Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán trực tiếp làm công tác điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội, vấn đề trách nhiệm ở đây phải hiểu gồm hai vấn đề như:

Trước hết do năng lực trình độ nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử còn hạn chế từ đó dẫn tới việc điều tra, xác

minh thu thập các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và điều tra xác minh về quá trình nhân thân của người bị kết án mang tính chất phiến diện, không đầy đủ và thiếu khách quan v.v... từ đó đã ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định của Hội đồng xét xử.

Thứ hai, trình độ năng lực, tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng là một trong những nguyên nhân của hạn chế, bất cập. Có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về chế định án treo, đặc biệt là về bản chất pháp lý, vị trí, vai trò, ý nghĩa của chế định này và các điều kiện cho hưởng án treo. Có trường hợp cố tình cho hưởng án treo trước khi xét xử nên xử phạt nhẹ (ba năm tù trở xuống) và áp dụng không đúng tình tiết giảm nhẹ, lờ đi các tình tiết thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu để cho hưởng án treo. Bị cáo gây thiệt hại lớn về sức khỏe hoặc tài sản và chỉ bồi thường số tiền không đáng kể so với thiệt hại đã gây ra nhưng Thẩm phán vẫn coi là tình tiết giảm nhẹ để cho bị cáo hưởng án treo.

Thứ ba, nguyên nhân từ phía cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân có liên quan. Chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan được giao theo dòi, quản lý, giám sát giáo dục người bị kết án, chưa có sự phân công phân định rò ràng gắn với trách nhiệm trong công tác quản lý, giáo dục người được hưởng án treo tại các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc chính quyền địa phương.

Hơn nữa, các văn bản pháp luật của Nhà nước ta hiện hành chưa có sự quy định một cách chặt chẽ và đầy đủ sự ràng buộc về chế định pháp lý khi người bị kết án mà vi phạm điều kiện của thời gian thử thách của án treo trong việc quản lý và giáo dục người bị kết án mà luật chỉ quy định việc vi phạm điều kiện của thử thách khi mà họ phạm tội mới mà thôi. Chính từ việc không quy định của pháp luật về việc vi phạm trong hoạt động quản lý, giám sát người được hưởng án treo mà công tác quản lý đối với đối tượng phải thi hành án trong trường hợp này gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí một số địa phương còn buông lỏng không quan tâm theo dòi đôn đốc, phó mặc cho các cơ quan pháp luật.

Chương 3

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ ÁN TREO

VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ÁN TREO


3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ÁN TREO

Sau nhiều năm thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, thực tiễn áp dụng án treo vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế đòi hỏi việc áp dụng án treo cần thực hiện một số yêu cầu cơ bản sau:

* Xuất phát từ đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo pháp luật được thực hiện đúng đắn, được chấp hành nghiêm chỉnh ở mọi lúc mọi nơi. Các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, cán bộ công chức nhà nước và mọi công dân đều tuân thủ mọi quy định của pháp luật. Có như vậy hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng mới bảo vệ được quyền tự do dân chủ, danh dự, tính mạng, nhân phẩm và mọi quyền lợi hợp pháp của công dân. Tránh được sự tùy tiện lạm quyền trong khi thi hành công vụ, thực hiện nghĩa vụ của cơ quan nhà nước, của công chức và mọi công dân. Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước công dân, trước xã hội về hoạt động của mình, công dân phải chịu trách nhiệm trước nhà nước và xã hội về thực hiện nghĩa vụ của mình.

* Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp

Mục tiêu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta là làm cho hệ thống tư pháp thích nghi và hoạt động có hiệu quả trong điều kiện nền kình tế thị trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc

tế, đáp ứng tốt hơn chức năng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích quốc gia, dân tộc thông qua hoạt động trung tâm của cả hệ thống là xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp pháp lý.

Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" thì công tác tư pháp nói chung và công tác xét xử án hình sự nói riêng phải đảm bảo tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân. Khắc phục tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng xét xử không công bằng, vi phạm quyền dân chủ của công dân.

Từ mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước đề ra nội dung cơ bản của cải cách tư pháp là phải xác định lại đúng vị trí, chức năng, thẩm quyền của mỗi cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp; cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp với khâu đột phá là nâng cao chất lượng tranh tụng công khai dân chủ, công bằng tại phiên tòa, đảm bảo mọi cá nhân, tổ chức đều có cơ hội bình đẳng trình bày và bảo vệ quyền, lợi ích của mình trước cơ quan tư pháp mà tập trung nhất tại các phiên tòa xét xử công khai.

Như vậy, Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã chọn cải cách Tòa án là khâu đột phá trong cải cách tư pháp vì trong hệ thống tư pháp Tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng. Phán quyết của Tòa án là kết quả cuối cùng của tiến trình tố tụng tuyên bố một người là có tội hay không có tội, việc truy tố người đó có đúng hay sai.

Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 cũng chỉ rò mục tiêu quan điểm của cải cách tư pháp là: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành hiệu quả và hiệu lực cao. Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản

chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cải cách tư pháp xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, xây dựng xã hội công bằng dân chủ, văn minh; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội; kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cải cách tư pháp phải tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc.

Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc áp dụng pháp luật về án treo ngày càng đạt chất lượng và hiệu quả cao.

* Xuất phát từ những bất cập của thực trạng áp dụng án treo

Trong những năm gần đây, thực trạng việc áp dụng án treo đã được nhiều kết quả nhất định góp phần vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần thực hiện trên thực tiễn chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, vừa tạo điều kiện thuận lợi để những người lầm đường, lạc lối có cơ hội tốt nhất để tự cải tạo thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, việc áp dụng chế định án treo ở nước ta nói chung và ở tỉnh Hải Dương nói riêng vẫn còn có những tồn tại như quyết định hình phạt quá nhẹ dẫn đến áp dụng án treo tràn lan; đánh giá không đầy đủ, đúng đắn về nhân thân người phạm tội khi áp dụng án treo; áp dụng án treo khi không đủ điều kiện về tình tiết giảm nhẹ; chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về phòng ngừa đối với một số loại tội phạm cụ thể; không thực hiện đúng quy định về giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục; không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định của pháp luật đối với người được hưởng án treo. Vì vậy đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là Tòa án phải kịp thời khắc phục những hạn chế để việc áp dụng pháp luật về án treo đạt hiệu quả cao, đạt được mục đích của hình phạt để pháp luật đi vào đời sống, thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân vào đường lối của Đảng, vào chính sách, pháp luật của Nhà nước.

3.2. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ ÁN TREO

Thông qua nghiên cứu đề tài về chế định án treo trong Bộ luật hình sự Việt Nam, để dễ hiểu và vận dụng một cách thống nhất những quy định về chế định án treo thì vấn đề hoàn thiện về mặt pháp luật là hết sức cần thiết. Theo như quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự ghi: "1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm" [21].

Như vậy, quy định nêu trên chưa thể hiện án treo là gì dẫn tới có nhiều cách hiểu khác nhau về án treo, trong đó có quan điểm đánh đồng thời gian thử thách án treo với thời hạn hình phạt tù từ đó hướng dẫn cách ấn định thời gian thử thách đối với trường hợp người bị xử phạt tù đã bị tạm giam như sau: Trường hợp người bị xử phạt tù đã bị tạm giam thì lấy mức hình phạt tù trừ đi thời gian đã bị tạm giam để xác định mức hình phạt tù còn lại phải chấp hành. Thời gian thử thách trong trường hợp này bằng hai lần mức hình phạt tù còn lại phải chấp hành, nhưng không được dưới một năm và không được quá năm năm. Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 định nghĩa "Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù" [37], do đó cần đưa khái niệm án treo như trên vào khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra theo quy định tại Điều 60 ghi… nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm, đây là một quy định hết sức mang tính tùy nghi và có thể phụ thuộc vào ý chí của từng Thẩm phán vì rằng có thể cùng một vụ việc thì Thẩm phán này bảo không cần thiết còn Thẩm phán kia

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022