Ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay qua một số trường hợp tiêu biểu - 2

mọc một mình (Nxb Trẻ, 1989), Em muốn giang tay giữa trời mà hét (Nxb Hội Nhà văn, 1992) và Thức đến sáng và mơ (Nxb Văn nghệ, 2004); (3) Tuyết Nga (1960) với 3 tập thơ: Viết trước tuổi mình (Nxb Hội Nhà văn, 1992), Ảo giác (Nxb Hội Nhà văn, 2002) và Hạt dẻ thứ tư (Nxb Hà Nội, 2008); (4) Đinh Thị Như Thúy (1965) với 3 tập thơ: Cùng đi qua mùa hạ (Nxb Văn nghệ, 2005), Phía bên kia cây cầu (Nxb Phụ nữ, 2007) và Ngày linh hương nở sáng (Nxb Hội Nhà văn, 2011); (5) Lê Ngân Hằng (1971) với 3 tập thơ: Xe chở mùa (Nxb Hội Nhà văn, 2003), Orient - Trên những vòm cây (Nxb Hội Nhà văn, 2006) và Harvest - mùa màng đọc lại nỗi đau (Nxb Hội Nhà văn, 2013); (6) Phan Huyền Thư (1974) với 2 tập thơ: Nằm nghiêng (Nxb Hội Nhà văn, 2002) và Rỗng ngực (Nxb Văn học, 2005); (7) Ly Hoàng Ly (1975) với 2 tập thơ là Cỏ trắng (Nxb Hội Nhà văn, 1999) và Lô lô (Nxb Hội Nhà văn, 2005); (8) Bình Nguyên Trang (1977) với 2 tập thơ Chỉ em và chiếc bình pha lê biết (Nxb Hội Nhà văn, 2003) và Những bông hoa đang thiền (Nxb Hội Nhà văn, 2012); (9) Vi Thùy Linh (1980) với 5 tập thơ: Khát (Nxb Hội Nhà văn, 1999), Linh (Nxb Thanh niên, 2000), Đồng tử (Nxb Văn nghệ, 2005), Vili in love (Nxb Văn nghệ, 2008) và Phim đôi - tình tự chậm (Nxb Thanh niên, 2010) và (10) Trương Quế Chi (1987) với tập thơ Tôi đang lớn (Nxb Trẻ, 2005).

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Phương pháp luận nghiên cứu của luận án

Ngoài phương pháp luận chung của nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn, thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi xác định việc triển khai trên nguyên tắc phương pháp luận riêng sau đây:

- Đặt văn học nghê thuật trong chỉnh thể kiến trúc thượng tầng để thấy được mối quan hệ và sự ảnh hưởng qua lại của văn học nghệ thuật với cơ sở hạ tầng (cơ sở kinh tế) cũng như các yếu tố khác trong hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng (chính trị, pháp luật, khoa học, triết học, đạo đức, tôn giáo,…). Cụ thể là đặt văn học mang nội dung ý thức nữ quyền trong mối quan hệ với cơ sở kinh tế cùng với hệ ý thức xã hội cũng như các thiết chế chính trị xã hội tương ứng để thấy được nguyên nhân xuất hiện cũng như

quá trình phát triển của văn học mang nội dung ý thức nữ quyền trong nền văn học dân tộc;

- Vận dụng linh hoạt lý thuyết phương Tây, cụ thể là lý thuyết nữ quyền trong nghiên cứu thực tiễn đời sống văn học Việt Nam. Chúng tôi cho rằng, việc áp dụng, vận dụng lý thuyết phương Tây để khám phá văn học dân tộc là cần thiết và có thể mang lại những kết luận khoa học lí thú và bổ ích. Tuy thế, việc vận dụng này cần linh hoạt, tránh cực đoan cứng nhắc;

- Nhìn nhận các cấp độ nội dung cũng như những phương thức nghệ thuật thể hiện ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay từ thực tiễn đời sống văn hóa, chính trị - xã hội của dân tộc, trong cái nhìn cũng như những khuôn khổ chế định của nền văn hóa Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Cách làm này giúp cho những vấn đề được đặt ra trong quá trình nghiên cứu sẽ trở nên khách quan và trung thực hơn, tránh thiên kiến, định kiến, hoặc ngợi ca hết lời, hoặc phê phán hết lời.

4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Từ nguyên tắc phương pháp luận trên, để hoàn thành nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp chính sau đây:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 181 trang tài liệu này.

- Phương pháp thống kê - phân loại: Thống kê và phân loại các sáng tác của các tác giả nữ theo từng nội dung được triển khai trong luận án. Quá trình thống kê và phân loại được tham chiếu từ cả hai tiêu chí định lượng (ở những luận điểm, luận cứ thực sự cần thiết) và định tính để việc minh chứng cho các luận điểm có tính thuyết phục hơn.

- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học: Đây là phương pháp được sử dụng xuyết suốt luận án nhằm tường giải cũng như bình luận, đánh giá giá trị thơ nữ từ phương diện thể hiện ý thức nữ quyền trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Việc phân tích được căn cứ trên cơ sở tiếp cận hệ thống chỉnh thể đơn vị tác phẩm, kết hợp với các yếu tố khác như thời đại, trào lưu, khuynh hướng và cá tính sáng tạo.

Ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay qua một số trường hợp tiêu biểu - 2

- Phương pháp so sánh văn học: Đây là một phương pháp được sử dụng nhằm so sánh việc thể hiện ý thức nữ quyền ở từng cây bút trong phạm vi khảo sát của luận án khi chúng tôi thấy cần thiết. So sánh sẽ giúp cho người nghiên cứu thấy được rò hơn đặc điểm cá tính sáng tạo của mỗi thi sĩ trong quá trình vận động của thơ trẻ nói chung và thơ nữ giai đoạn từ 1986 đến nay nói riêng.

- Phương pháp loại hình học văn học: Loại hình học văn học hướng tới việc chỉ ra những đặc điểm chung của thơ nữ bao gồm các cấp độ nội dung cũng như một số phương thức nghệ thuật thể hiện ý thức nữ quyền. Tuy nhiên, để tránh sơ lược hóa và khiên cưỡng vấn đề, chúng tôi cũng dành sự quan tâm tới cá tính sáng tạo của từng cây bút nữ cũng như chỉ ra những điểm độc đáo ở mỗi người trên bức tranh chung của một lực lượng sáng tác trẻ.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Nhìn nhận, đánh giá việc thể hiện ý thức nữ quyền của thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay trong bối cảnh của lịch sử, hội nhập văn hóa quốc tế trong một vài thập niên trở lại đây, cũng như là trong sự phát triển chung của ý thức xã hội, chúng tôi vận dụng kiến thức của Lịch sử, Văn hóa học, Ngôn ngữ học, Luật học, Tâm lý học, Xã hội học… để tìm hiểu những biểu hiện của ý thức nữ quyền trong các sáng tác của các tác giả thơ nữ từ 1986 đến nay trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

5.1. Luận án là công trình khoa học đầu tiên đặt ra và nghiên cứu một cách hệ thống về nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ năm 1986 đến nay (qua một số trường hợp tiêu biểu). Trong đó, các vấn đề lý thuyết về giới, về nữ quyền, về sự thể hiện ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam trước 1986 đã được làm rò. Đặc biệt, các cấp độ nội dung cũng như nghệ thuật của việc thể hiện ý thức nữ quyền trong thơ nữ đương đại, từ năm 1986 đến nay đã được khảo sát, mô tả và tổng kết tương đối đầy đủ.

5.2. Công trình đồng thời cũng sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho giới nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam hiện đại.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Đề tài có ý nghĩa lý luận: Khái quát tương đối đầy đủ một số phương diện quan trọng trong lịch sử cũng như những nội dung quan trọng nhất của lý thuyết Nữ quyền phương Tây và đặc biệt là cách thức vận dụng lý thuyết này vào nghiên cứu thực thể văn học Việt Nam;

- Đề tài cũng có ý nghĩa thực tiễn: Từ cái nhìn ý thức nữ quyền, chúng tôi đã có những nhận định, đánh giá về các cấp độ nội dung và phương thức nghệ thuật của thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay (qua một số trường hợp tiêu biểu).

7. Cấu trúc của luận án

Đề tài sẽ được trình bày theo đúng quy định. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình nghiên cứu của tác giả có liên quan đến đề tài luận án, Tài liệu tham khảo, nội dung chính được triển khai trên 4 chương:

- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và giới thuyết nữ quyền, ý thức nữ quyền (32 tr, từ tr.8 - tr.39);

- Chương 2: Ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam trước 1986 (29 tr, từ tr.40 - tr.68);

- Chương 3: Các cấp độ thể hiện ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay (47 tr, từ tr.69 -115);

- Chương 4: Các phương thức thể hiện ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay (25 tr, từ tr.116 -140)

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

VÀ GIỚI THUYẾT VỀ NỮ QUYỀN, Ý THỨC NỮ QUYỀN


1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Cho đến nay, việc ứng dụng lí thuyết phê bình nữ quyền vào nghiên cứu văn học ở Việt Nam đã được một thời gian nhất định, đó là điểm đáng ghi nhận trong nỗ lực đổi mới lí thuyết lí luận - phê bình để phù hợp với diện mạo của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Khảo sát hệ thống tài liệu tham khảo chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu bộ phận văn học Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn của nữ quyền luận là tương đối phong phú. Tuy đã có nhiều ý kiến đề cập đến âm hưởng nữ quyền trong sáng tác của một số tác phẩm ở một vài tác giả nhưng số công trình nghiên cứu dài hơi dường như còn thưa vắng. Trước thực tế này, chúng tôi cố gắng chọn lọc và điểm lại những ý kiến được xem là xác đáng, cụ thể nhất và có tính gợi mở cho đề tài với hai nhóm ý kiến sau: (1) Nhóm ý kiến bàn về ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam và (2) Nhóm ý kiến bàn về ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam đương đại.

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam

Nhìn một cách tổng quan, việc nghiên cứu ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam chỉ thực sự được tiến hành từ những thập niên đầu thế kỉ XX đến nay. Xu hướng nghiên cứu này cũng có những bước phát triển thăng trầm theo ý thức xã hội cũng như thực tế phát triển của văn học nước nhà. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu xoay quanh hai thể loại nổi bật của nền văn học là thơ và văn xuôi. Cụ thể như sau:

1.1.1.1. Từ đầu thế kỉ XX đến trước năm 1945

Đây là giai đoạn có tính chất tiên phong trong việc nghiên cứu văn học nữ cũng như ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam. Có thể kể đến công trình, bài viết của các tác giả như Phan Khôi, Manh Manh nữ sĩ (Nguyễn Thị Kiêm), Vân Hương nữ sĩ, Nguyễn Thị Hồng Đăng, Lệ Hương, Lê Thị Huỳnh Lan, Đạm Phương nữ sĩ, Phan Thị Bạch Vân...

Phan Khôi được coi là người có đóng góp nổi bật trong việc đề cập đến dòng văn học “nữ lưu” và mối quan hệ giữa phái đẹp với văn chương qua hàng loạt bài viết đăng trên tờ Phụ nữ tân văn như: “Về văn học của phụ nữ Việt Nam” [85], “Văn học với nữ tánh” [86], “Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh” [87]… Trong bài viết “Văn học và nữ tánh”, ông viết: “Chúng ta có những cái tánh trầm tĩnh, nhẫn nại, dùng những cái tánh ấy mà nghiên cứu văn học, thì không có gì hạp cho bằng, có lẽ chúng ta theo nghề văn học còn dễ dàng hơn đờn ông nữa. Còn có một điều thích hiệp nữa, là văn học chuyên trọng về đường tình cảm, mà chúng ta là giống có tình cảm nhiều hơn đàn ông, thì thật là tiện lợi cho chúng ta biết mấy” [87]. Ở đây Phan Khôi đã đồng nhất phụ nữ với văn chương, bởi vì phụ nữ vốn là cái đẹp mà văn chương hướng tới. Mặt khác, học giả Phan Khôi cho rằng, với bản chất nhu mì, nhạy cảm, phụ nữ rất có tiềm năng trong sáng tác văn chương. Ý kiến này xuất phát từ cách nhìn nhận cảm tính của “tâm lí học sáng tạo văn học” mặc dù tại thời điểm đó, lí thuyết về phê bình nữ quyền ở ta vẫn chưa được xác lập.

Nguyễn Thị Kiêm (với bút danh Manh Manh nữ sĩ) cũng bày tỏ quan điểm của mình khi nhìn nhận về văn học nữ qua bài viết “Nữ lưu và văn học” đăng trên Phụ nữ tân văn, số 131, ngày 26/5/1932. Trong bài viết, bà cho rằng: “… cái địa vị của đàn bà ở trong văn học cũng không phải là thấp thỏi gì, theo như nhiều người đã tưởng. Và cái ảnh hưởng của đàn bà đối với những bậc văn nhân tao sĩ cũng rất là nặng nề thâm thiết, nhờ đó mà văn học phát đạt vô cùng” [88]. Nhận định này của nữ sĩ có phần gặp gỡ với quan điểm của Phan Khôi. Điều đáng nói hơn, nhận định này xuất phát từ ý thức của một phụ nữ, dùng tiếng nói của phụ nữ để khẳng định vị thế của giới mình trong việc phát triển văn học nước nhà. Không dừng lại ở đó, bà còn cho rằng: “Những của cải tích trữ ở trong cái kho tàng đó, nếu có thể phân phát ra bằng ngọn bút đường văn, thì cái văn ấy là cái hình ảnh của nỗi lòng, khi thường, khi biến, lúc an, lúc nguy, tùy theo với sự kích thích của ngoại cảnh mà thăng trầm, mà theo với cái ca điệu của thiên nhiên mà họa vận” [88]. Đây chính là nét khác biệt của văn học mà ý thức giới quy định đã được nữ sĩ chỉ ra một cách cụ thể.

Tuy nhiên, do xuất hiện trong bối cảnh sôi động của văn học đương thời như phong trào Thơ mới, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, cuộc tranh luận “Thơ mới thơ cũ” và do cả đối tượng nghiên cứu là văn học nữ còn hạn chế nên khuynh hướng này nhanh chóng bị chìm khuất. Phải đến những nghiên cứu về nữ quyền gần đây mới xác lập lại vai trò và đóng góp của các tác giả trên.

1.1.1.2. Từ năm 1945 đến 1975

Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, đất nước bị chia cắt nên văn học cũng như hoạt động lí luận - phê bình văn học ở giai đoạn này mang những nét đặc thù. Ở miền Bắc, do yêu cầu phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu, văn học chủ yếu mang âm hưởng sử thi và cảm hứng lãng mạn với phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Có lẽ do đề cao sức mạnh cộng đồng, muôn người như một nên ý thức về giới, về thân phận cũng đồng nhất với ý thức công dân, theo đó mà vấn đề nữ quyền là điều mặc nhiên được thừa nhận lúc bấy giờ. Và trong một thời gian dài, vấn đề nghiên cứu văn học nữ, ý thức phái tính hay tiếng nói nữ quyền không thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu. Ở miền Nam, tình hình nghiên cứu nữ quyền trong văn học cũng hết sức mờ nhạt, mặc dù đời sống sáng tác cũng phong phú và quan điểm của nhà cầm quyền cũng tỏ ra cởi mở trong việc du nhập nhiều lí thuyết phê bình văn học phương Tây. Việc nghiên cứu văn học nữ nói chung và ý thức nữ quyền nói riêng trong giai đoạn này vẫn cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc bằng những chuyên luận dài hơi mới có thể cung cấp được một cái nhìn khách quan và chân xác về mảng sáng tác văn học nói trên.

1.1.1.3. Từ sau năm 1986 đến 1998

Vấn đề ý thức nữ quyền giai đoạn này đã được khơi gợi trở lại bởi các ý kiến của Vò Phiến, Trương Chính, Phương Lựu…

Trong cuốn “Văn học miền Nam tổng quan” xuất bản tại Hoa Kì năm 1988, Vò Phiến đã đề cập đến sự tồn tại của một lối viết nữ trong văn học miền Nam giai đoạn 1954 - 1975. Ông viết: “Đứng về phương diện phái tính, văn học miền Nam thời kì 54 - 75 càng ngày càng nghiêng về nữ phái... Thoạt đầu trên văn đàn nghe tiếng ồm ồm, cuối cùng nghe ra eo éo” [152]. Với nhận định này, tác giả Vò Phiến đã tỏ ra nắm bắt được đặc trưng về thi pháp giọng điệu trong sáng tác của các nhà

văn nữ. Đây chính là một trong những đặc trưng mà nhà nghiên cứu dùng để nhận diện phong cách nhà văn. Đó là giọng “ồn trong cái yêu” của tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng, là giọng “bù lu bù loa” của tiểu thuyết Nhã Ca. Tuy nhiên, nhận định này cũng như những phân tích của Vò Phiến về khuynh hướng tiểu thuyết nữ trong văn học đô thị miền Nam vẫn chưa làm rò được âm hưởng nữ quyền hay phái tính như một phương diện mang tính đặc thù.

Trong bài viết “Nhìn nhận lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn”, đăng trên Tạp chí Văn học, số 5 năm 1990, nhà nghiên cứu Trương Chính đã đánh giá rất cao đóng góp của Tự lực văn đoàn trên vấn đề kêu gọi giải phóng phụ nữ và tự do hôn nhân. Theo ông, “Các nhà văn Tự lực văn đoàn đã công kích nhiều mặt của chế độ phong kiến, đặc biệt là luân lý phong kiến đối với phụ nữ. Họ chủ trương tự do hôn nhân, tự do yêu đương xây dựng hạnh phúc gia đình trên tình yêu đôi lứa. Họ căm thù cảnh mẹ chồng nàng dâu, họ chủ trương đàn bà trẻ được tự do cải giá, họ vạch bộ mặt giả dối, xảo quyệt của những bà mẹ ghẻ. Họ đứng về phía những người chống lại lớp người cũ. Họ đứng về phía cá nhân chống lại chế độ gia đình” [17]. Nhận định này của Trương Chính đã chỉ ra những đổi mới về cái nhìn của các nhà văn Tự lực văn đoàn trong việc bênh vực những người phụ nữ tân thời với tư tưởng tiến bộ, không cam chịu khuôn mình theo những lễ giáo phong kiến đã tỏ ra lạc hậu bấy giờ. Tuy nhiên, ý kiến của Trương Chính mới xuất phát từ việc nhận ra tư tưởng tiến bộ của văn chương Tự lực văn đoàn và ông xem người phụ nữ là hình tượng văn học trung tâm của khám phá nghệ thuật.

Đáng chú ý trong giai đoạn này phải kể đến cuộc trao đổi ý kiến của các nhà nghiên cứu như Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Phạm Xuân Nguyên, Đặng Anh Đào về vấn đề văn học nữ và các tác giả nữ viết văn được đăng trên Tạp chí Văn học, số 6/1996. Các ý kiến chủ yếu làm rò những thế mạnh và hạn chế của các cây bút nữ trong khoảng 10 năm (từ 1986 đến 1996). Tuy thế, các ý kiến mới dừng lại ở việc nhận diện đội ngũ và thành tựu văn học nữ, còn vấn đề nữ quyền vẫn chưa được bàn luận sôi nổi. Điều này chỉ thực sự được bàn đến như một vấn đề trung tâm để nghiên cứu trong bài viết của Phương Lựu với tựa đề “Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ

Xem tất cả 181 trang.

Ngày đăng: 22/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí