Xây dựng văn hoá doanh nghiệp tại tập đoàn WalMart - 2

CHƯƠNG I:‌

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP


I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP

1. Khái niệm

1.1. Văn hoá

Văn hoá gắn liền với sự ra đời của nhân loại. Nhưng mãi đến thế kỷ 17, nhất là nửa cuối thế kỷ 19 trở đi, các nhà khoa học trên thế giới mới tập trung vào nghiên cứu sâu về lĩnh vực này. Bản thân vấn đề văn hoá rất đa dạng và phức tạp, nó là một khái niệm có ngoại diên rất lớn, được dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm khác nhau về đối tượng, tích chất và hình thức biểu hiện. Do đó, khi có những nghiên cứu tiếp cận khác nhau sẽ dẫn đến có nhiều quan niệm xung quanh nội dung thuật ngữ văn hóa. Hiện chưa có một khái niệm thống nhất về văn hoá. Chúng ta có thể hiểu văn hoá theo một số khái niệm sau đây:

Theo UNESCO: “Văn hoá là một phức thể, tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, linh cảm khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng quốc gia, xã hội. Văn hoá không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng.”1

Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và các phương tiện, phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

1 Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.”2

Xây dựng văn hoá doanh nghiệp tại tập đoàn WalMart - 2

Theo E.Herriot: “Văn hoá là cái còn lại sau khi người ta quên đi tất cả, là cái vẫn còn thiếu sau khi người ta đã học tất cả.”3

Tóm lại, văn hoá là một tổng thể các sáng tạo vật chất và không vật chất của một cộng đồng người trong quá trình quan hệ với thiên nhiên và với những cộng đồng người khác. Và không chỉ có các quốc gia, các dân tộc mới có văn hoá mà mỗi một tổ chức, một doanh nghiệp cũng có văn hoá riêng của mình.

1.2. Văn hoá doanh nghiệp

Trong xã hội rộng lớn, mỗi doanh nghiệp được coi là một xã hội thu nhỏ. Xã hội lớn có nền văn hoá lớn, xã hội nhỏ (doanh nghiệp) cũng cần xây dựng cho mình một nền văn hoá riêng biệt. Nền văn hoá ấy chịu ảnh hưởng và đồng thời cũng là một bộ phận cấu thành nên nền văn hoá lớn. Như Edgar Schein, một nhà quản trị nổi tiếng người Mỹ có nói: “Văn hoá doanh nghiệp gắn với văn hoá xã hội, là một bước tiến của văn hoá xã hội, là tầng sâu của văn hoá xã hội. Văn hoá doanh nghiệp đòi hỏi vừa chú ý tới năng suất và hiệu quả sản xuất, vừa chú ý quan hệ chủ thợ, quan hệ giữa người với người. Nói rộng ra, nếu toàn bộ nền sản xuất đều được xây dựng trên một nền văn hoá doanh nghiệp có trình độ cao, nền sản xuất sẽ vừa mang bản sắc dân tộc, vừa thích ứng với thời đại hiện nay”.4

Vào đầu những năm 70, sau sự thành công rực rỡ của các công ty Nhật Bản, các công ty Mỹ bắt đầu chú ý tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những thành công đó. Cụm từ “corporate culture/organizational culture” (văn hoá doanh nghiệp, còn gọi là văn hoá xí nghiệp, văn hoá công ty) đã được các chuyên gia nghiên cứu về tổ chức và các nhà quản lý sử dụng để chỉ một

2 Hồ Chí Minh tuyển tập – tập 3 (1995), Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

3 Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

4 Schein, F. (2004), Corporate Culture and Leadership, Jossey Bass Publisher.

trong những tác nhân chủ yếu dẫn đến sự thành công của các công ty Nhật trên khắp thế giới.

Đầu thập kỷ 90, người ta bắt đầu đi sâu nghiên cứu tìm hiểu những nhân tố cấu thành cũng như những tác động to lớn của văn hoá đối với sự phát triển của một doanh nghiệp. Đã có rất nhiều khái niệm văn hoá doanh nghiệp được đưa ra nhưng cho đến nay chưa có một định nghĩa chuẩn nào được chính thức công nhận. Sau đây là một số khái niệm về văn hoá doanh nghiệp mang tính phổ biến:

Văn hoá doanh nghiệp là lối tư duy và lối làm việc đã thành thói quen và truyền thống, nó được chia sẻ ở mức độ nhiều hay ít giữa tất cả các thành viên; những điều đó các thành viên mới phải học và ít nhất phải chấp nhận một phần để hoà đồng với các thành viên và tổ chức. Theo nghĩa đó, văn hoá doanh nghiệp bao quát một phạm vi rộng cách ứng xử; các phương pháp sản xuất; kỹ năng nghề nghiệp và tri thức kỹ thuật; thái độ đối với các quy định của tổ chức; các thói quen và tập quán ứng xử trong quản lý; những mục tiêu đang quan tâm; cách tiến hành công việc kinh doanh; phương pháp thanh toán; những quy định cho các công việc khác nhau; niềm tin vào cách sống

dân chủ và cùng nhau tham khảo ý kiến; các quy ước ít tự giác và những điều cấm đoán.5

Văn hoá là một kiểu cách tín ngưỡng và hy vọng được các thành viên của tổ chức chia sẻ. Những niềm tin ấy, hy vọng ấy sinh ra các tiêu chí, chúng hình thành một cách mạnh mẽ cách ứng xử của các cá nhân, các nhóm trong tổ chức.6



5 PGS.TS. Nguyễn Thu Linh, Th.S Hà Hoa Lý (2005), Văn hoá tổ chức – Lý thuyết, thực trạng và giải pháp phát triển văn hoá tổ chức ở Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

6 PGS.TS. Nguyễn Thu Linh, Th.S Hà Hoa Lý (2005), Văn hoá tổ chức – Lý thuyết, thực trạng và giải pháp phát triển văn hoá tổ chức ở Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

7 PGS.TS. Nguyễn Thu Linh, Th.S Hà Hoa Lý (2005), Văn hoá tổ chức – Lý thuyết, thực trạng và giải pháp phát triển văn hoá tổ chức ở Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội

Một phẩm chất thuộc cái riêng biệt về tổ chức – nó thể hiện mình có những phẩm chất khác thường, nó làm cho khác với những tổ chức khác trong cùng lĩnh vực.7

“Văn hoá” đề cập đến những niềm tin, giá trị, nguyên tắc ngầm tạo thành cơ sở cho việc quản lý một tổ chức cũng như cho tập hợp các hành động quản lý, hành vi quản lý, cả hai điều đó làm gương điển hình và tăng cường các nguyên tắc cơ bản ấy.8

Các định nghĩa trên đã phản ánh các cách hiểu khác nhau về văn hoá doanh nghiệp. Để làm rõ hơn khái niệm này, có thể sắp xếp các định nghĩa theo hai loại: ẩn dấu và thể hiện.

Loại định nghĩa theo kiểu ẩn dấu xem văn hoá doanh nghiệp là những yếu tố chứa đựng những nguyên tắc ẩn dấu được chia sẻ, được chấp nhận bởi một nhóm người trong tổ chức, quyết định nhận thức, suy nghĩ, hành động của họ và của tổ chức đối với các sự biến đổi của môi trường xung quanh.9

Theo hình thức thể hiện, văn hoá doanh nghiệp là hệ thống chia sẻ quan điểm nhận thức, quan điểm của các thành viên trong tổ chức, để phân biệt tổ chức này với tổ chức khác 10

Tóm lại, văn hoá doanh nghiệp là một hệ thống những ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, nhận thức và phương pháp tư duy được mọi thành viên của tổ chức cùng đồng thuận và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến cách thức hành động của các thành viên. Văn hoá doanh nghiệp biểu thị sự thống nhất trong nhận thức của tất cả các thành viên tổ chức về hệ thống những giá trị chung và có tác dụng giúp phân biệt giữa tổ chức này với các tổ chức khác. Chúng được mọi thành viên trong tổ chức chấp thuận có ảnh hưởng trực tiếp, hàng



8 PGS.TS. Nguyễn Thu Linh, Th.S Hà Hoa Lý (2005), Văn hoá tổ chức – Lý thuyết, thực trạng và giải pháp phát triển văn hoá tổ chức ở Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội

9 PGS.TS. Nguyễn Thu Linh, Th.S Hà Hoa Lý (2005), Văn hoá tổ chức – Lý thuyết, thực trạng và giải pháp phát triển văn hoá tổ chức ở Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội

10 PGS.TS. Nguyễn Thu Linh, Th.S Hà Hoa Lý (2005), Văn hoá tổ chức – Lý thuyết, thực trạng và giải pháp

ngày đến hành động và việc ra quyết định của từng người và được hướng dẫn cho những thành viên mới để tôn trọng và làm theo. Chính vì vậy, chúng còn được gọi là bản sắc văn hoá của một tổ chức.11

Văn hoá doanh nghiệp là hệ thống giá trị tinh thần, là cái hồn của doanh nghiệp, vậy phải chăng nó là vô hình, chỉ có thể cảm nhận chứ không có biểu hiện cụ thể? Theo quan điểm của một số nhà kinh doanh, văn hoá doanh nghiệp vừa có tính hữu hình, vừa có tính vô hình. Nó có thể được thể hiện qua một sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nhưng cũng có thể chỉ là cảm nhận rất chủ quan của một khách hàng hay cộng đồng kinh doanh đối với doanh nghiệp. Cũng có ý kiến cho rằng văn hoá doanh nghiệp không phải là cái gì vô hình, ngược lại, thể hiện rõ trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp: trong mọi hành vi kinh doanh, giao tiếp của công nhân, cán bộ trong doanh nghiệp (kể cả trong nội bộ doanh nghiệp và với đối tác bên ngoài doanh nghiệp) và trong các hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp (từ mẫu mã, kiểu dáng, đến nội dung và chất lượng).

2. Chức năng của văn hóa doanh nghiệp

2.1. Xây dựng đoàn kết nội bộ

Một trong những chức năng của văn hoá doanh nghiệp là tạo ra cảm giác thống nhất của mọi thành viên, tạo ra hình ảnh “chúng tôi”, tập thể, bảo đảm sự hài hoà giữa lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân. Trong văn hoá doanh nghiệp ở mỗi cương vị, mỗi vị trí từng thành viên đều nhận thức được vai trò của mình, nhận thức được những gì mà doanh nghiệp mong đợi và có thể đáp lại những mong đợi đó như thế nào? Văn hoá doanh nghiệp tạo điều kiện cho các thành viên nhận ra được những sắc thái riêng mà một tổ chức muốn vươn tới. Nó cũng tạo ra sự cam kết tự nguyện đối với những gì vượt ra ngoài phạm vi niềm tin và giá trị của mỗi cá nhân. Chúng giúp các thành viên mới nhận


11 Th.S Ngô Quý Nhâm (1/2004), Định hướng phát triển văn hoá doanh nghiệp trong thế kỉ 21, Tạp chí Kinh tế và phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.

thức được ý nghĩa của các sự kiện và hoạt động của tổ chức. Văn hoá doanh nghiệp có tác dụng từ mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong doanh nghiệp, dần dần hình thành nên một giá trị định hướng, qua đó huy động tập thể công chức đồng tâm hiệp lực phấn đấu cho mục đích của toàn doanh nghiệp.

2.2. Tạo ra khuôn mẫu văn hoá

Trong mỗi doanh nghiệp đều tồn tại những chuẩn mực về giá trị đặc trưng, hình tượng, phong cách được tôn trọng một cách thiêng liêng và truyền từ người này sang người khác, thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hoá doanh nghiệp thể hiện sự thống nhất cao trong nhận thức của mọi các thành viên về những giá trị đó và mỗi doanh nghiệp đều có hệ thống những chuẩn mực đặc trưng riêng. Trong môi trường cạnh tranh để phát triển, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều vấn đề thách thức thì những giá trị chuẩn mực tác động trực tiếp mỗi thành viên ở mọi khâu, mọi vị trí trong doanh nghiệp và sẽ hướng họ phải hành động và ra quyết định như thế nào để đưa doanh nghiệp vượt lên. Nhờ đó mà doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển

2.3. Tạo ra các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội

Các giá trị chuẩn mực đó được truyền bá, lưu trữ, chắt lọc và phát triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc; trở thành hệ thống các giá trị đặc trưng cho một dân tộc, bao gồm chính trị đạo đức, luật pháp, khoa học, văn học nghệ thuật, các thể chế, thiết chế văn hoá, tập quán lối sống... tạo nên nền tảng tinh thần của mỗi dân tộc. Trong vai trò nền tảng tinh thần của xã hội và của mỗi doanh nghiệp, văn hoá là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trước hết thông qua chức năng xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn, năng lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân và cộng đồng. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, phải hướng đến một xã hội công bằng dân chủ, văn minh, con người được hưởng hạnh phúc và phát triển toàn diện; chính vì vậy,

văn hoá đóng vai trò là mục tiêu trước mắt và lâu dài của phát riển kinh tế xã hội. Như vậy thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh sẽ không có sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

3. Vai trò của văn hoá doanh nghiệp

3.1. Về mặt tích cực

- Là nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh

Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp được xem xét trên các khía cạnh như: chất lượng sản phẩm, chi phí, sự linh hoạt (trước phản ứng của thị trường), thời gian giao hàng… Để có được những lợi thế này doanh nghiệp phải có những nguồn lực như nhân lực, tài chính, công nghệ, máy móc, nguyên vật liệu, phương pháp làm việc (phương pháp 5M: man, money, material, machine, method). Nguồn lực tài chính, máy móc, nguyên vật liệu đóng vai trò lợi thế so sánh với đối thủ cạnh tranh trước khách hàng. Nguồn nhân lực đóng vai trò tham gia toàn bộ quá trình chuyển hoá các nguồn lực khác thành sản phẩm đầu ra, vì vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định tạo ra những lợi thế cạnh tranh như chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng…

Tính hiệu quả của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào yếu tố văn hoá (văn hoá doanh nghiệp). Nó ảnh hưởng trực tiếp to lớn đến việc hình thành mục tiêu, chiến lược và chính sách, nó tạo ra tính định hướng có tính chất chiến lược cho bản thân doanh nghiệp, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho việc thực hiện thành công chiến lược đã lựa chọn của doanh nghiệp. Môi trường văn hoá của doanh nghiệp còn có ý nghĩa tác động quyết định đến tinh thần, thái độ, động cơ lao động của các thành viên và việc sử dụng đội ngũ lao động và các yếu tố khác. Môi trường văn hoá càng trở nên quan trọng hơn trong các doanh nghiệp liên doanh, bởi vì ở đó có sự kết hợp giữa văn hoá của các dân tộc, các nước khác nhau.

- Vai trò phối hợp và kiểm soát

Nhìn một cách rộng hơn, văn hoá thúc đẩy sự thống nhất trong nhận thức, cũng chính là tạo thuận lợi trong phối hợp và kiểm soát. Văn hoá biểu hiện trong truyền thống của tổ chức, tạo ra khuôn mẫu ứng xử của tổ chức, được các thành viên chấp thuận và tuân thủ, thể hiện sự hoà đồng bên trong tổ chức nói chung, cũng như việc ra quyết định trong những trường hợp cụ thể. Đặc biệt là trong việc ra quyết định gặp phải những thực tế phức tạp, thì văn hoá doanh nghiệp sẽ có tác động để phạm vi hoá sự lựa chọn. Văn hoá không chỉ xem như một yếu tố thuận lợi cho phối hợp, mà trong hình thái giá trị, niềm tin, cách ứng xử, đặc biệt là cách nhận thức chung, văn hoá còn tạo ra sức mạnh để kiểm soát tổ chức. Những chính kiến văn hoá đã hạn chế một cách có hiệu quả hành vi của các thành viên trong tổ chức, họ chỉ được tự do thể hiện chính kiến cá nhân của mình trong khuôn khổ chung của tổ chức. Nhiều tổ chức cố gắng để tạp hợp văn hoá của họ cho lợi thế cạnh tranh, đây chính là một minh chứng về sức mạnh văn hoá để tạo ra những ứng xử mong muốn, và đảm bảo thực hiện được nguyên tắc.

- Giúp giảm rủi ro trong công việc hàng ngày

Ở cấp độ cá nhân, một trong những chức năng của văn hoá là truyền tải những “nhận thức chung” qua quá trình đào tạo và tuyển chọn nhân viên mới. Điều này được thực hiện thông qua ý tưởng của văn hoá, mà các thành viên mới phải học để hiểu và thực hiện trong công việc. Thực hiện được điều này sẽ tạo cơ sở suy nghĩ cho mọi người để giảm sự lo âu buồn phiền, bình thường hoá mọi việc xung quanh, để có những lựa chọn dễ dàng và những hành động có suy nghĩ hơn, hợp lý hơn. Ở cấp độ tổ chức, với những biểu tượng, truyền thống văn hoá, một tổ chức có thể tạo ra một thế giới riêng cho tổ chức mình, trong đó sự phức tạp và các yếu tố rủi ro được giảm bớt. Trên cơ sở đó, tổ chức sẽ có khả năng kiểm soát các hoạt động của mình, tối đa hoá những hoạt động có hiệu quả.

- Thu hút nhân tài, tăng cường sự gắn bó của người lao động

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/09/2022