1.3.2.1. Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể
- Các di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và địa phương: Toàn TP. Hưng Yên hiện có khoảng trên 130 di tích, trong đó có 20 di tích đựơc xếp hạng cấp quốc gia, 22 di tích xếp hạng cấp tỉnh, gần 100 bia ký, trên 11.200 hiện vật trong đó có 6.022 hiện vật có giá trị về lịch sử. Trong đó khu di tích Phố Hiến là di tích cấp quốc gia đặc biệt. (chi tiết xem ở phụ lục)
- Một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu:
Đền Mẫu
Đền Mẫu là một trong những địa danh nổi tiếng, được coi là ngôi đền có cảnh quan thiên nhiên đẹp cổ kính nhất Hưng Yên hiện nay. Đền Mẫu có tên gọi khác là Hoa Dương linh từ hay đền Mậu Dương, tọa lạc ở phường Quang Trung, TP. Hưng Yên. Đền thờ Dương Quý Phi - vợ vua Tống (Trung Quốc thế kỷ XIII), bà là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Để giữ trọn khí tiết, lòng thuỷ chung với vua và trung thành với đất nước bà đã nhảy xuống biển tự vẫn khi bị giặc Nguyên Mông truy đuổi. Xác của bà trôi dạt vào vùng Phố Hiến, được nhân dân ở đây chôn cất. Sau này có một vị quan thái giám nhà Tống lưu lạc đến vùng này biết chuyện đã cùng nhân dân xây dựng ngôi đền và lập làng Hoa Dương, với ý nghĩa biểu dương tấm lòng tiết liệt, trung trinh của bà. Từ đó, đền có tên là Hoa Dương linh từ. Năm 1294, vua Trần Anh Tông chinh phạt Chiêm Thành, một đêm qua đây, nằm mộng thấy có thần nữ đến phù trợ giết giặc. Sau khi thắng trận trở về, nhớ tới công lao đó của thần nữ, nhà vua cho tôn tạo lại đền, và miễn thuế thuyền buôn ở Phố Hiến. Qua thời gian ngôi đền không ngừng được trùng tu và xây dựng thêm. Vào năm Thành Thái thứ 8 (1896) đền Mẫu được trùng tu lớn và có quy mô như ngày nay.
Đền Mẫu toạ lạc trên một vùng đất rộng gần 3000m2, quay về hướng Tây Nam, phía trước là hồ Bán Nguyệt, xa hơn một chút là con đê sông Hồng. Tương truyền, hồ nước phía trước đền xưa kia chính là một đoạn của con sông Hồng, do nước chảy đổi dòng mà thành. Đây cũng là nơi thi hài bà quý phi nhà Tống dạt vào. Đền được xây dựng theo bốcục tiền nhất, hậu đinh
gồm các hạng mục chính như: Nghi môn, đại bái, trung từ, hậu cung, phủ Đông, phủ Tây, nhà Oản (nhà sắp lễ). Toàn bộ công trình được bài trí hài hòa và được xây dựng bằng nguyên liệu bền vững như: gỗ lim, vôi mật, xi măng tạo nên một khu di tích khang trang, thoáng đãng. Nghi môn được xây dựng rất bề thế với chiều dài là 16,9m, kiến trúc chồng diên 2 tầng 8 mái. Cửa đền (tam quan) được xây dựng theo kiểu vòm cuốn gồm 1 cửa chính và hai cửa phụ, cửa chính cao 7m đắp hình ngói ống. Trên vòm cuốn có bức đại tự ghi: “Dương thiên hậu Tống triều”. Tầng trên đắp bức đại tự “Mẫu nghi thiên hạ” được ghép bằng các mảnh gốm lam (đây là nét trang trí điển hình của kiến trúc thời Nguyễn). Qua nghi môn là sân đền, giữa sân có cây cổ thụ gần 700 năm tuổi - sự hội ngộ của 3 cây đa - sanh - si quấn quýt lấy nhau tạo thế chân kiềng vững chắc bao trùm toàn bộ ngôi đền tăng thêm vẻ thâm nghiêm, cổ kính cho di tích. Theo mọi người kể lại, rằng ngày xưa, giữa sân có một cây bàng cổ thụ, chim chóc kéo về quần tụ, làm rơi vãi những hạt đa, si, sanh trên ngọn cây bàng. Những hạt ấy mọc thành cây buông rễ xuống ôm trọn cây bàng. Các rễ khác đâm ngang, toả theo thế một cây đa 3 gốc như hiện nay. Theo các nhà sử học thì đây là cây đa cổ nhất vùng châu thổ Bắc Bộ.
Đi qua sân đền là đến toà đại bái với 3 gian, kiến trúc 2 tầng 8 mái; mái uốn cong mềm mại kiểu rồng chầu, lợp ngói vẩy rồng, chính diện đắp lưỡng long chầu nguyệt. Hai bên đại bái là điện Lưu Ly và cung Quảng Hàn. Bên trong đại bái là cung đệ tam với 5 gian, gian giữa nổi bật với 4 đôi câu đối ngợi ca Thánh Mẫu. Gian phía trong treo bài văn của Chu Mạnh Trinh, soạn năm 1896, ghi lại công trạng của bà. Trong hậu cung an trí tượng Thánh Mẫu cùng với khám thờ, tràng kỷ. Tất cả đều được sơn son thếp vàng. Ai đến đây vào buổi tối, dưới ánh sáng mờ ảo của điện nến, trong làn khói hương lan toả, cũng đều cảm nhận một không khí tĩnh lặng và linh thiêng của chốn thâm cung.
Ngoài cảnh quan đẹp và kiến trúc cổ kính ra trong đền còn lưu giữ nhiều di vật quý như: Kiệu võng, long đình, long sàng, long đại có niên đại thế kỷ XVIII – XIX và 15 đạo sắc phong từ triều Lê đến triều Nguyễn, cùng
25
nhiều bức hoành phi, câu đối, đại tự ca ngợi sự trinh tiết và trung thành của Dương Quý phi. Năm 1992, Đền Mẫu đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VHTT&DL) công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật. Hằng năm đền Mẫu thu hút nhiều lượt khách tới tham quan không chỉ vì yếu tố tâm linh mà còn bởi cảnh sắc trù phú nơi đây.
Văn miếu Xích Đằng
Đây là nơi hội tụ yếu tố tinh hoa, trí tuệ, tài năng của người Hưng Yên. Văn Miếu Hưng Yên mang tên Xích Đằng bởi xưa kia được dựng trên nền ngôi chùa cổ Nguyệt Đường tại thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, TP. Hưng Yên. Văn Miếu Xích Đằng là nơi tôn thờ Đức Thánh Khổng Tử - người sáng lập ra đạo Nho, cùng các học trò giỏi của Ngài: Mạnh Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Nhan Tử. Phối thờ trong gian chính là tượng thầy giáo Chu Văn An, nhà sư phạm tài năng đức độ thời Trần, được lịch sử tôn vinh là "ông tổ đạo Nho của nước Nam ta".
Theo bài văn khắc trên chuông thì từ năm 1804 Hưng Yên đã có Văn Miếu, nhưng phải đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839) Văn Miếu Xích Đằng mới được xây dựng lại với quy mô to đẹp, bề thế như ngày nay. Từ ngoài đi vào là tam quan có gác lên lầu bao quát được phong cảnh một vùng của thành phố, tiếp đến là khoảng sân rộng có đường thập đạo, nơi thị sát các sỹ tử thi hương. Hai dãy nhà tả vu, hữu vu - trước đây là nơi để kiệu, mũ áo của các quan mỗi kỳ tế lễ, nay là phòng trưng bày những hình ảnh về nền giáo dục Hưng Yên xưa và nay. Khu thờ tự chính được xây dựng mang dáng dấp, phong cách cung đình thời Nguyễn bao gồm: Đại bái, Trung từ, Hậu cung. Tên tuổi của các nhà khoa bảng được lưu danh trên 9 tấm bia đá dựng hai bên gian thờ chính như Trạng nguyên Dương Phúc Tư (người Lạc Đạo - Văn Lâm); Trạng Nguyên Tống Trân (người An Cầu - Phù Cừ) là những người có học vị cao nhất. Chức vụ cao nhất được lưu danh là tiến sỹ Lê Như Hổ (Tiên Lữ - đỗ 1541), giữ chức vụ quận công trong triều đình nhà Mạc; Nguyễn Trung Ngạn giữ chức tể tưởng thời Trần và đó cũng là những hiện vật vô cùng quý giá mà Văn Miếu Xích Đằng còn giữ được. Văn Miếu Xích
Đằng được Bộ Văn hóa - Thông tin (Nay là Bộ VHTT&DL) công nhận là "Di tích lịch sử văn hóa" cấp quốc gia vào năm 1992. Văn Miếu đã trở thành biểu tượng và cũng là nơi vinh danh tinh hoa trí tuệ của người dân xứ nhãn.
1.3.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể
Lễ hội
Lễ hội là một khái niệm để chỉ một lĩnh vực của đời sống văn hóa con người. Lễ hội là điểm tích tụ văn hóa, là hoạt động văn hóa quan trọng, thường niên, định kì của con người. Lễ hội gồm hai yếu tố lễ và hội.
Hằng năm, hầu hết các di tích tại các địa phương đều tổ chức lễ hội. Phần lớn các lễ hội diễn ra vào mùa xuân, thu hút đông đảo sự tham gia của du khách thập phương.
Loại hình lễ hội | Thời gian lễ hội | Cấp quản lý | |||
Cấp quốc gia | Cấp Bộ | Cấp tỉnh | |||
Lễ hội đền Mẫu | Dân gian | 10 đến 12/3, chính hội 10 | X | ||
Lễ hội đền Thiên Hậu | Dân gian | 23/3 và 9/9 AL | X | ||
Võ Miếu | Dân gian | 13/3 và 24/6 AL | X | ||
Đền Bảo Châu | DTLS CM | 13/3 Al | X | ||
Đình Hiến | Dân gian | 10/3 AL | X | ||
Đông Đô Quảng Hội | Dân gian | 23/3 và 09/9 AL | X | ||
Đền Tân La | DTLS CM | 17/3 AL | X | ||
Đền Mây | Dân gian | 10/01 và 16/1AL | X | ||
Đền Kim Đằng | Dân gian | 17/11 AL | X | ||
Đền Đào | Dân gian | 02/2 AL | X |
Có thể bạn quan tâm!
- Xây dựng chương trình du lịch đặc thù cho TP. Hưng Yên - 1
- Xây dựng chương trình du lịch đặc thù cho TP. Hưng Yên - 2
- Khái Quát Về Tiểu Vùng Du Lịch Tp. Hưng Yên
- Đường Lối Chính Sách Và Công Tác Quy Hoạch, Kế Hoạch Phát Triển Du Lịch Tp. Hưng Yên Của Tỉnh Hưng Yên
- Hiện Trạng Về Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Phục Vụ Ngành Du Lịch
- Hoạch Địnhcác Chương Trình Du Lịch Đặc Thù Cho Tp. Hưng Yên
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
Đình, đền, chùa Đào Đặng | Dân gian | 03/ AL | X | ||
Đình Bồng Châu | DT LSVH | 9,10 tháng giêng; ngày 10/11 và 10/3. | X | ||
Bà Chúa Kho | Dân gian | 1/3 | X | ||
Đình Nễ Châu | DT LSCM | X | |||
Đình Cả | Dân gian | 24/6; 16/11 | X | ||
Đình Đông | Dân gian | 10/3 và 10/11AL | X | ||
Đền Cửu Thiên Huyền Nữ | Dân gian | 9/9AL; 3/3; 20/8. | X | ||
Đình Tiền Thắng | Dân gian | 10/3 AL | X | ||
Đền Tính Linh | DTLS VH | 20/8 AL | X | ||
Đình, chùa Kệ Châu | Dân gian | 2/3; 5/5; 8/8; 20/11 để kỷ niệm ngày hóa của các vị thần | X | ||
Đình Đoài | Dân gian | 10/3 và 10/11 AL | X | ||
Đền, chùa Đặng Cầu | Dân gian | 15/01; 08/4 và 15/7 AL | X | ||
Đền Chạ | Dân gian | 10/3 AL | X | ||
Đình, đền, lăng mộ Lê Như Hổ | DT LSVH | 26/1 | X |
Nương
Bảng 1.3: Danh sách các lễ hội được xếp hạng trên địa bàn TP. Hưng Yên Trong số các lễ hội ấy phải kể tới một vài lễ hội nổi tiếng như: Lễ hội
văn hóa dân gian Phố Hiến, hội đền Mẫu, hội Đào Nương…Lễ hội truyền
thống đền Mẫu tổ chức từ ngày 10 đến 13 tháng 3 âm lịch. Mở đầu là buổi tế long trọng do các quan viên làng Mậu Dương thực hiện. Hôm sau tổ chức rước nước từ sông Hồng về làm lễ mục dục. Buổi rước sôi động nhất là rước liềm và rước du. Rước liềm tổ chức vào ngày 12/3, đám rước xuống đình Hiến và trở về đền chính. Đi đầu là cờ, trống chiêng, long đình, bát bửu, lộ bộ, có đội múa lân, múa rồng. Đám rước đi một đoạn thì dừng lại để biểu diễn múa cờ. Bốn thanh niên cầm 4 cờ, múa theo nhịp trống, lúc nhanh, lúc chậm. Sau mỗi tiếng trống, người múa cờ “hứ” một tiếng to và dài (nên được gọi là trò “tùng hứ”). Đám rước du được tổ chức vào ngày hôm sau. Đám rước đi quanh phố. Đi trong đám rước cũng như hôm rước liềm. Trong đám rước, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến cuối đám rước, có múa “Con đi đánh bồng”. Đám rước đi đến đâu hai bên đường các gia đình đốt pháo nổ không dứt. Trong ngày hội, sân đền tổ chức thi đấu cờ, quân cờ là nam thanh nữ tú. Tổ chức thi đấu tổ tôm điếm, chọi gà, buổi tối hát chầu văn. Lễ hội đền Mẫu được tổ chức hằng năm dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa phương cùng nhân dân đã và đang trở thành điểm nhấn về du lịch lễ hội tại TP. Hưng Yên.
Từ năm 2007 đến nay, TP. Hưng Yên đều tổ chức Lễ hội văn hóa dân gian Phố Hiến hàng năm nhằm quảng bá hình ảnh Phố Hiến xưa – TP. Hưng Yên hôm nay đến nhân dân và du khách thập phương. Đến với lễ hội, du khách không chỉ được hòa mình vào không gian lễ hội mà còn là dịp để du khách thưởng ngoạn, tìm hiểu về các di tích lịch sử - văn hóa vốn được xem là điểm nhấn về du lịch Phố Hiến. Mở đầu chuỗi các sự kiện diễn ra trong lễ hội sẽ là phần tế lễ, như lễ dâng hương, lễ cầu an, lễ rước kiệu của các di tích. Đây là các nghi thức nhằm khôi phục, phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống và các hoạt động văn hóa tín ngưỡng ở các đình, đền, chùa, miếu… Phần hội diễn ra với nhiều hoạt động phong phú, đặc sắc như văn hóa ẩm thực, thi cầu kiều, kéo co, chọi gà, cờ tướng, bơi chải, đàn và hát dân ca, hội thi thả diều sáo, trưng bày, giới thiệu đặc sản vùng Phố Hiến, trưng bày, giới thiệu cổ vật… Đến với lễ hội, du khách không chỉ được thưởng
thức các món ăn dân gian đặc sản ở Hưng Yên như bún thang, chè sen long nhãn… mà còn trực tiếp được xem cách chế biến các món ăn này qua bàn tay dịu dàng, cần mẫn của các chị em phụ nữ đất nhãn. Ngoài được thưởng ngoạn các di tích lịch sử văn hóa, du khách còn được hòa mình vào không khí lễ hội mang đặc trưng riêng chỉ có ở Hưng Yên. Và đặc biệt là chương trình biểu diễn nghệ thuật “Phố Hiến, ánh sáng trong trầm tích phù sa sông Hồng” trong đêm khai mạc lễ hội với những trích đoạn sử thi kèm theo các tiết mục nghệ thuật đặc sắc gợi lại hình ảnh Phố Hiến xưa, khắc họa chân dung những con người đất nhãn, ca ngợi quê hương Hưng Yên văn hiến và cách mạng…
Tuy nhiên hiện nay các lễ hội của TP. Hưng Yên nói riêng cũng như cả nước nói chung vẫn còn xảy ra tình trạng cờ bạc, trộm cắp, chặt chém du khách thập phương, xả rác bừa bãi… phá hỏng hình ảnh điểm đến thân thiện trong lòng du khách. Vì vậy cần có những giải pháp cụ thể để khai thác hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch lễ hội.
Dù vậy lễ hội vẫn là điểm nhấn văn hóa của một vùng, một địa phương. Đắm mình trong không khí lễ hội, du khách được tìm hiểu sâu thêm về truyền thống, khơi dậy lòng tự hào dân tộc; được khám phá những nét độc đáo riêng về ẩm thực, âm nhạc và các trò chơi dân gian độc đáo của vùng đất “Tiểu Tràng An” xưa. Đây cũng là dịp để TP. Hưng Yên quảng bá tiềm năng, đẩy mạnh phát triển du lịch, dịch vụ gắn với các di tích lịch sử, lễ hội… nhằm không ngừng góp phần bảo tồn và phát huy một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Làng nghề thủ công truyền thống
Toàn tỉnh hiện có 85 làng nghề hoạt động ở các mức độ khác nhau. Dù tập trung chủ yếu ở huyện Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ nhưng TP. Hưng Yên cũng có khoảng 6 làng nghề chiếm 7% số lượng làng nghề của tỉnh. Đó là nghề chế biến long nhãn và các sản phẩm từ nhãn, nghề chế biến hạt sen,
nghề làm hương xạ, nghề làm mứt táo, làng làm bún, nghề trồng dâu, nuôi tằm.
Trong số đó có nghề làm Hương xạ Cao Thôn. Làng Cao Thôn thuộc xã Bảo Khê, TP. Hưng Yên ven đường 39, sát đê sông Hồng. Nghề làm hương ở Cao Thôn đã có hàng trăm năm nay, hầu hết các gia đình đều làm hương. Tương truyền vào cuối thế kỉ XIX, có người con gái họ Đào tên Khương đã truyền nghề làm hương cho dân làng. Bà lúc bé được theo gia đình đi đây đi đó. Năm 15, 16 tuổi bà ra Hà Nội làm thuê cho một cửa hiệu người Hoa buôn hương từ Trung Quốc sang và lấy chồng Hoa và theo chồng về Trung Quốc. Nhớ quê, khi tuổi đã cao bà trở về thăm quê nhà và đã truyền lại nghề làm hương cho dân làng Cao Thôn.
Cao Thôn chủ yếu làm hương vòng, hương nén và hương sào. Hương được làm theo mùa, mùa đông hương đốt có mùi thơm trầm ấm, mùa xuân, mùa thu mùa thơm dịu, mùa hạ mùi thơm thanh mát. Hương liệu làm hương gồm nhiều loại. Hương liệu chính của hương xạ là xạ hương và trầm ngoài ra còn có đinh hương, nhựa trám, thảo quả, địa liền, mộc hương, ba kích…Hầu hết các công đoạn đều đươc làm một cách thủ công. Cả làng có 120/190 hộ làm hương. Hiện nay ở Cao Thôn có khoảng 300 lao động làm hương, sản lượng hương xạ đạt xấp xỉ 10 triệu nén/năm với doanh thu từ 2,5 - 3 tỷ đồng. Thời vụ làm hương đông nhất là hai tháng giáp Tết Nguyên Đán. Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Hưng Yên đã về nghiên cứu, xây dựng logo riêng cho làng nghề nhằm từng bước quảng bá, xây dựng thương hiệu. Làng nghề hương xạ Cao Thôn vẫn có triển vọng giữ được nghề và ổn định phát triển.
Bên cạnh hương xạ thì TP. Hưng Yên còn nổi tiếng với làng nghề chế biến long nhãn. Xã Phương Chiểu (TP. Hưng Yên) được xem là “cái nôi” của nghề chế biến long nhãn. Nghề làm long nhãn đã xuất hiện và duy trì được gần 50 năm nay ở TP. Hưng Yên, chủ yếu tập trung ở xã Phương Chiểu, Hồng Nam, Liên Phương, Tân Hưng. Nhãn quả tươi sau khi thu hoạch, nhặt bỏ quả hư hỏng sẽ được dùng dụng cụ để “xoáy” loại bỏ hạt và vỏ. Những