Ma Trận Đánh Giá Các Yếu Tố Bên Ngoài (Efe) Của Công Ty

lượng sản phẩm, quản trị và quản trị nhân sự. Bên cạnh đó, cần lưu ý khắc phục những hạn chế như nghiên cứu và phát triển sản phẩm, marketing, hệ thống thông tin, kênh phân phối nhằm tạo ra ưu thế vượt trội để có thể vươn lên và vượt qua các đối thủ.

4.2.3. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn

Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn có thể xuất hiện do:

- Rào cản xâm nhập ngành thấp: tỉnh An Giang có thế mạnh về lúa, do đó dễ dàng tiếp cận nguồn nguyên liệu; Sản phẩm gạo ít có sự khác biệt, yêu cầu kỹ thuật chế biến không cao; Mặt hàng xuất khẩu gạo được chính phủ ưu đãi về xuất khẩu; Giá chặn xâm nhập thấp vì gạo là sản phẩm phổ biến có mức giá biến động theo thị trường thế giới và theo giá thõa thuận của Hiệp hội lương thực Việt Nam nên các doanh nghiệp sẽ có mức lợi nhuận ổn định; Khả năng trả đũa của các đối thủ cạnh tranh là rất thấp. Tuy vốn đầu tư vào ngành cao nhưng mức lợi nhuận ổn định.

- Các đối thủ cạnh tranh mới có thể xuất hiện:

+ Các công ty mới gia nhập ngành: Các công ty có thể gia nhập vào ngành là các công ty tư nhân, công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Số lượng hội viên tham gia vào Hiệp hội lương thực Việt Nam không ngừng tăng năm 2004 có 81 hội viên, đến năm 2005 tăng lên 101 hội viên.

+ Những nhà phân phối trung gian lớn của công ty, họ có vốn, có kinh nghiệm.

+ Những nhà cung cấp gạo nguyên liệu lớn (các nhà máy tư nhân, bạn hàng xáo), họ có thể học hỏi kinh nghiệm chế biến, đóng gói gạo thành phẩm.

+ Những công ty chế biến nông – lâm sản, thực phẩm họ có thể mở rộng lĩnh vực hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực kinh doanh gạo, họ có một số khách hàng trong lĩnh vực hoạt động hiện tại.

+ Các công ty từ nước ngoài: trên thị trường xuất khẩu gạo trên thế giới, Việt Nam có sản lượng xuất khẩu lớn thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). Bên cạnh đó, có những nước xuất khẩu gạo ngày càng mạnh như Ấn Độ, Pakistan, Mỹ, Ai Cập.

4.2.4. Các sản phẩm, dịch vụ thay thế

Gạo là loại lương thực cần thiết đối với mọi người, là loại thực phẩm thiết yếu cung cấp năng lượng cho con người. Ăn cơm gạo giúp người ăn no lâu, không ngán. Do đó, gạo là loại lương thực khó thay thế. Tuy nhiên, cũng có một số loại thực phẩm cung cấp tinh bột thay thế cho gạo như lúa mì, bắp, nếp, cao lương, khoai…

4.2.5. Nhà cung cấp

- Nhà cung cấp vốn: Công ty được cổ phần hóa, hoạt động kinh doanh có hiệu quả tạo uy tín đối với cổ đông và khách hàng. Công ty được nhà nước, quỹ tín dụng và các ngân hàng hỗ trợ vốn cho công ty.

- Nhà cung cấp nguyên liệu: An Giang là tỉnh có sản lượng lúa đứng đầu cả nước. Nguồn nguyên liệu để chế biến gạo thành phẩm là lúa và gạo nguyên liệu. Có thể nói, nông dân là nhà cung cấp lúa nguyên liệu cho công ty. Nhưng do đặc điểm lưu thông của kênh phân phối lúa gạo ở Việt nam là thông qua thương lái và bạn hàng xáo. Cho nên, nhà nguyên liệu lúa đầu vào cho công ty là thương lái và cung cấp gạo nguyên liệu là bạn hàng xáo, các nhà máy xay lúa tư nhân.

- Nhà cung cấp lao động: Lao động của công ty không nhiều và đa số là những lao động phổ thông nên cũng không đòi hỏi trình độ cao. Chỉ một bộ phận nhân viên quản lý và giao dịch là phải có trình độ quản lý, ngoại ngữ, kinh nghiệm và bản lĩnh

trong thương mại quốc tế - lực lượng này ở công ty chưa nhiều. Tuy Việt Nam là nước đông dân, lao động dồi dào nhưng trình độ lao động nhìn chung chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập và thương mại toàn cầu.


4.3. Phân tích ảnh hưởng của môi trường vĩ mô

4.3.1. Ảnh hưởng kinh tế

Sản lượng gạo thế giới năm 2005 tăng 2,7% (mức sản lượng là 410,98 triệu tấn gạo) so với cùng kỳ năm ngoái nhưng nhu cầu tiêu thụ gạo (mức sản lượng là 418,18 triệu tấn gạo) cao hơn nguồn cung ứng trong khi mức dự trữ đầu năm lại giảm7.

Ngày nay khi nền kinh tế thế giới đang có nhiều biến đổi tạo ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam. Cụ thể như Philippines tiếp tục nhập khẩu gạo của Việt Nam, Nhật Bản sẽ tăng hạn ngạch nhập khẩu gạo lên từ 5 đến 35%8. Bộ trưởng Bộ Thương mại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết, nước này sẽ gở bỏ hạn ngạch nhập khẩu gạo vào ngày 31/07/20069. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chớp lấy thời cơ để kinh doanh. Từ khi gạo trở thành lương thực chính ở Arập Xêút, chính phủ nước này không đánh thuế nhập khẩu gạo nữa, tạo cơ hội cho các thương gia tái xuất khẩu gạo nhập khẩu sang các nước láng giềng.

Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội – GDP của việt Nam tăng liên tục qua 3 năm 2003 là 7,34%, năm 2004 là 7,69% và năm 2005 là 8,4%10. Điều đó cho thấy Việt Nam có xu hướng tăng trưởng kinh tế. Đây là điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào kinh doanh.

Tỷ giá hối đoái USD/VND có xu hướng tăng, điều này có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, vì số tiền thu về được quy đổi thành tiền Việt nhiều hơn. Công ty cổ phần Du Lịch An Giang chủ yếu là xuất khẩu gạo nhiều hơn bán ở nội địa do đó có lợi nhiều hơn.

Mặt hàng gạo là một trong những mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu của nước ta. Và nó được miễn thuế xuất khẩu. Mặt khác, gạo là sản phẩm lương thực mà quốc gia nào cũng cần, chất lượng gạo và giá cả phù hợp từng mặt hàng gạo, gạo không bị thuế chống phá giá. Đây là một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo.

Biến động của giá cả và sự cạnh tranh: Trong năm 2005 vừa qua, giá xuất khẩu ổn định ở mức cao, cao hơn năm 2004 khoảng 34 USD/tấn. Mức độ chênh lệch giữa gạo Việt và Thái là khá cao, mức chênh lệch trong tháng 04/2005 là 40 USD/tấn. Tuy nhiên khoảng cách này được rút ngắn vào cuối năm 2005 là còn khoảng 15 – 17 USD/tấn11; Theo tài liệu báo cáo tổng kết của Hiệp hội lương thực Việt Nam có nhận định vẫn còn “tình trạng cạnh tranh không lành mạnh để giành hợp đồng xuất khẩu giữa các doanh nghiệp bằng cách giảm giá xuất khẩu qua nhiều hình thức khác nhau”.

4.3.2. Ảnh hưởng xã hội – văn hóa – dân số

- Thị trường nội địa:

+ Dân số trung bình năm 2005 của cả nước ước tính khoảng 83,12 triệu người, tăng 1,33% so với năm 2004. Trong đó, dân số khu vực thành thị là 22,23 triệu người, chiếm 26,8% và dân số nông thôn 60,89 triệu người, chiếm 73,2%12. Dân số tăng làm cho nhu cầu lương thực của cả nước tăng.


7Nguồn số liệu từ USDA

8Nguồn tin từ vinanet 26/04/2006

9Nguồn tin từ Reuters

10 http://www.mof.gov.vn

11 Trích từ Báo cáo tổng kết năm 2005 của Angimex

12 Số liệu Tổng cục thống kê

+ Đời sống dân cư năm 2005 nhìn chung ổn định. Việc điều chỉnh mức lương tối thiểu đã tác động tích cực và cải thiện đời sống cán bộ, viên chức và người hưởng lương từ ngân sách, những người có thu nhập cao họ có nhu cầu sử dụng gạo có chất lượng ngon, đặc biệt là dân ở thành thị.

+ Bên cạnh đó, đa số dân lao động có mức thu nhập thấp và trung bình họ thường mua các loại gạo có chất lượng không cao, giá thấp, không quan tâm đến thương hiệu. Nên công ty khó mà thâm nhập và phát triển thị trường này.

- Thị trường xuất khẩu:

+ Các thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam: Thị trường Châu Á chiếm gần 50% sản lượng, Châu Phi chiếm trên 30% sản lượng, Châu Mỹ chiếm khoảng 10%, Trung Đông chiếm khoảng gần 6%, còn lại là Châu Âu và Châu Úc13.

+ Các nước nhập khẩu gạo họ có nhu cầu sử dụng gạo khác nhau. Yêu cầu về chất lượng, kiểm tra các hóa chất, các dư lượng ngày càng chặt chẽ. Như thị trường Nhật Bản, số hóa chất phải kiểm tra từ 129 đến 508 loại. Trung Quốc trong năm qua nhập khẩu chủ yếu là nếp và gạo thơm. Iraq nhập khẩu gạo Thái đã chuyển sang nhập khẩu gạo Mỹ. Nigeria nhập khẩu chủ yếu là gạo đồ, tấm và gạo thơm.

4.3.3. Địa lý và điều kiện tự nhiên

An Giang là tỉnh có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng lúa. Sản lượng lúa của tỉnh cao, đạt trên 3 triệu tấn. Khí hậu ôn hoà, đất giàu phù sa, có hệ thống kênh mương chằng chịt tạo điều kiện thuận lợi cho việc tưới tiêu. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy tạo điều kiện thuận lợi cho việc trung chuyển hàng hoá, lúa gạo ít tốn chi phí.

Trong những năm qua thời tiết diễn biến không thuận lợi, lũ lụt và hạn hán xãy ra liên tiếp và trên diện rộng, giá vật tư, phân bón, xăng dầu, thuốc bảo vệ thực vật đều tăng đã ảnh hưởng đến sản xuất lúa, làm cho chi phí đầu vào của lúa tăng, kéo theo giá nguyên liệu đầu vào tăng. Tuy giá bán có tăng nhưng mức tăng không bằng với mức chi phí đầu vào.

Vị trí địa lý cũng có ảnh hưởng đến việc sản xuất ra những giống lúa đặc sản riêng như: nàng nhen (Tri Tôn-Tịnh Biên), nàng hương chợ Đào (Long An)…Tuy nhiên, sản lượng sản xuất không nhiều khó cho việc xuất khẩu với sản lượng lớn.

4.3.4. Chính trị - pháp luật

Chính phủ Việt Nam đang đầu tư mạnh vào công nghệ tưới, tiêu và khuyến khích nông dân chọn phương thức sản xuất hiện đại nhằm nâng cao sản lượng lúa. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng tăng cường cải tiến hầm chứa thóc để có thể đảm bảo dự trữ lâu dài đồng thời hỗ trợ các nhà xuất khẩu quảng bá thương hiệu nhằm tạo niềm tin cho khách hàng trên thị trường quốc tế về chất lượng và tiêu chuẩn gạo của Việt Nam.

Mặt khác, nhà nước có chủ trương chuyển đổi những vùng đất xấu sang nuôi trồng thủy sản và cây con khác, diện tích dành cho sản xuất lúa bị thu hẹp, lao động nông thôn ngày càng khang hiếm vào vụ thu hoạch nên chi phí nhân công tăng.

Việt Nam sẽ hợp tác với Thái Lan trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh gạo, điều này hứa hẹn chất lượng gạo Việt sẽ được nâng cao và giá bán gạo cũng sẽ được cải thiện.



13 Số liệu từ báo cáo của Hiệp hội lương thực Việt Nam

4.3.5. Khoa học – công nghệ

Nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật canh tác mới theo chương trình 3 giảm, 3 tăng, đầu tư thâm canh tổng hợp và đưa nhiều giống lúa mới có năng suất chất lượng cao. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều hộ nông dân vẫn sử dụng những giống lúa cũ đã bị thoái hóa, làm cho chất lượng lúa nói chung không đồng nhất.

Khâu thu hoạch và bảo quản chưa tốt, tỷ lệ hao hụt nhiều. Thu hoạch lúa vào vụ Hè Thu thường bị mưa, khó cho việc làm khô lúa sau thu hoạch. Dù hiện tại có nhiều công nghệ sấy lúa, nhưng chưa được nông dân áp dụng rộng rãi vì chi phí đầu tư khá cao, tốn diện tích đặt máy sấy. Từ đó, làm giảm chất lượng gạo.

Hiện nay trên thế giới có nhiều máy phục vụ cho chế biến gạo như: máy xay xát tự động, máy tách màu gạo, hệ thống sấy khô gạo, thiết bị đấu trộn, dây chuyền lao bóng gạo, kiểm tra chất lượng gạo, đóng gói tự động… các máy này giúp cho gạo chế biến được sạch hơn và chất lượng hơn. Nói chung, công nghệ phục vụ cho sản xuất, chế biến gạo thay đổi tương đối chậm.

Bảng 4 – 7: Ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài (EFE) của công ty



TT


Các yếu tố bên ngoài

Mức độ quan trọng


Phân loại

Số điểm quan trọng


1

Chính sách ưu đãi của nhà nước và sự hỗ trợ hiệu quả của hiệp hội


0,06


4


0,24

2

Nhu cầu gạo thế giới tăng, còn nhiều thị trường chưa khai thác

0,14

4

0,56

3

Các rào cản về an toàn thực phẩm ngày càng tăng

0,07

2

0,14


4

Áp lực cạnh tranh tăng cao do đối thủ cạnh tranh, nhiều đối thủ mới


0,07


2


0,14

5

Khoa học công nghệ phát triển tương đối chậm

0,04

3

0,12

6

Cạnh tranh không lành mạnh về giá và gian lận thương mại

0,05

3

0,15

7

Mặt hàng gạo không bị thuế phá giá và thuế xuất khẩu

0,12

3

0,36


8

Điều kiện tự nhiên ở ĐBSCL thích hợp sản xuất lúa có chất lượng cao


0,12


3


0,36

9

Thị trường nguyên liệu không ổn định

0,12

2

0,24

10

Đòi hỏi của khách hàng ngày càng tăng

0,07

3

0,21


11

Việt Nam hợp tác với Thái Lan, chất lượng gạo sẽ được nâng cao


0,07


2


0,14

12

Nhu cầu gạo nội địa tăng

0,07

2

0,14


Tổng

1,00


2,80

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.

Xây dựng chiến lược kinh doanh cho công ty cổ phần du lịch An Giang giai đoạn 2006 - 2010 - 6

Nhận xét:

Tổng số điểm quan trọng của công ty là 2,80 cho thấy khả năng phản ứng của công ty CP Du Lịch An Giang trước các mối đe dọa và các cơ hội bên ngoài khá tốt. Các chiến lược hiện tại đã giúp công ty phản ứng tích cực trước nhiều cơ hội. Tuy nhiên, còn một số các yếu tố có ảnh hưởng đến sự thành công mà công ty phản ứng chưa tốt như: các rào cản về an toàn thực phẩm ngày càng tăng, áp lực cạnh tranh tăng cao do đối thủ cạnh tranh, nhiều đối thủ mới, thị trường nguyên liệu không ổn định, nhu cầu gạo nội địa tăng.


Chương 5: XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CHO CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH AN GIANG

GIAI ĐOẠN 2006 – 2010

***

5.1. Xây dựng các mục tiêu chiến lược

5.1.1. Căn cứ xác định mục tiêu

5.1.1.1. Triển vọng của ngành:

- Điều kiện các nhân tố sản xuất: Các nhân tố sản xuất chính của ngành gồm: nguyên liệu, lao động và vốn.

+ Nguyên liệu là lúa, gạo có nhiều ưu điểm:

Dồi dào về sản lượng: diện tích và sản lượng của tỉnh An Giang trong ba năm qua liên tục tăng, diện tích năm 2003 là 503.856 ha, năm 2004 là 523.037 ha, năm 2005 là 529.698 ha; về sản lượng năm 2003 là 2,68 triệu tấn, năm 2004 là 3 triệu tấn, 2005 vừa qua là 3,14 triệu tấn. năng suất lúa cũng tăng liên tục. Có thể tổng kết:

Bảng 5 – 1: Tổng kết các chỉ tiêu diện tích, sản lượng, năng suất lúa của tỉnh


Chỉ tiêu

Năm 2003

Năm 2004

Năm 2005

Diện tích (ha)

503.856

523.037

529.698

Sản lượng (tấn)

2.686.214

3.006.900

3.141.544

Năng suất (tấn/ ha)

5,33

5,74

5,93

Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh An Giang, 2004

Bên cạnh đó, mục tiêu cụ thể trong việc sản xuất lúa gạo nước ta là duy trì 4 triệu ha đất canh tác lúa; giữ ổn định sản lượng lúa đến năm 2010 là 36 triệu tấn. Duy trì xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm. Xây dựng vùng sản xuất lúa xuất khẩu một triệu ha ở ĐBSCL để sản xuất gạo đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, nâng cao năng lực chế biến và kỹ năng kinh doanh với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường quốc tế.

+ Về chất lượng: Nước ta có truyền thống sản xuất lúa, do đó có nhiều kinh nghiệm trồng lúa có năng suất và chất lượng. Bên cạnh đó, việc ứng dụng những công nghệ tiên tiến của khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng nguyên liệu như: Sử dụng những giống lúa mới có năng suất chất lượng cao, có đặc tính ngon cơm, dẻo, mềm, thơm …sử dụng công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch lúa – công nghệ sấy, bảo quản lúa gạo có chất lượng, sử dụng công nghệ chế biến, lau bóng nâng cao chất lượng và giá trị gạo xuất khẩu.

+ Lao động: Sản xuất và chế biến gạo là ngành cần nhiều lao động, mà ở Việt Nam nguồn lao động dồi dào – là ưu thế của nước ta. Tuy nhiên trình độ lao động còn thấp, để khắc phục tình trạng đó chính phủ Việt Nam đã có những giải pháp cụ thể về đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ lao động như: mở rộng thêm quy mô các trường lớp, cải tiến và nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo. Nguồn cung cấp lao động cho

các công ty (Khu vực ĐBSCL – các tỉnh Miền Tây) có trình độ chuyên môn có thể từ Trường Đại Học Cần Thơ, Đại Học An Giang, các trung tâm dạy nghề…

+ Vốn: Ngành nông nghiệp, cụ thể là ngành kinh doanh lúa gạo được sự ưu đãi của chính phủ. Do hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, nên đã và đang tạo được lòng tin đối với các ngân hàng, quỹ tín dụng. Vì vậy, vốn đầu tư cho ngành được hỗ trợ tích cực. Chỉ cần ký được hợp đồng xuất khẩu, ngân hàng sẽ cho vay vốn.

- Điều kiện về nhu cầu:

+ Nhu cầu trong nước: Nhu cầu dùng lương thực trong nước tăng là do: Dân số Việt Nam tăng lên, tốc độ tăng bình quân là 1,33%; Mặt khác, do thiên tai, lũ lụt, hạn hán dẫn đến mất mùa, thiếu lương thực, thường là các tỉnh Miền Trung và Miền Bắc. Từ đó cho thấy nhu cầu lương thực nội địa tăng.

+ Nhu cầu của thị trường thế giới: Do dân số tăng và thiên tai, lũ lụt, hạn hán, động đất…diễn ra phức tạp. Trên thế giới sản xuất lương thực có tăng nhưng mức tăng không bằng nhu cầu tiêu thụ. Thế giới sẽ thiếu gạo - lời cảnh báo của Luật gia Edgar Labella ở thành phố Cebu (Philippine) trích từ báo cáo của Viện nghiên cứu gạo Quốc tế. Chúng ta có thể thấy rằng, tình trạng nhập khẩu gạo ngày càng tăng của thị trường Châu Á (Philippines, Bangladesh), Châu Phi (chủ yếu là Madagasca, Coast Ivory, Nigeria, Senegal), Trung Đông (Iran, Iraq), Châu Mỹ la tinh (Cuba, Peru).

- Các ngành hỗ trợ có liên quan

Công nghệ lai tạo giống: lúa sản xuất thuần chủng, sử dụng giống xác nhận để sản xuất lúa ngày càng tăng cao, làm tăng năng suất và chất lượng lúa gạo. Công nghệ sản xuất – chế tạo những máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, công nghệ thu hoạch lúa như công nghệ cắt, suốt, sấy lúa, chế biến gạo thành phẩm có chất lượng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Những công nghệ này ngày càng tiến bộ, đặc biệt là công nghệ sản xuất những giống lúa mới có chất lượng cao.

- Chiến lược công ty, cấu trúc ngành và cường độ cạnh tranh.

Ngành chế biến gạo xuất khẩu có nhiều công ty vừa và lớn (so với quy mô công ty ở Việt Nam), sức mạnh tương đối đồng đều, cường độ cạnh tranh trong ngành khá cao. Do đó, các công ty có thể:

+ Tăng năng lực sản xuất, chế biến, tăng quy mô để đáp ứng nhu cầu tăng của trong nước và trên thế giới.

+ Hiện đại hóa máy móc, thiết bị, dây chuyền, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm đồng bộ.

+ Phát triển khả năng nghiên cứu, cải tạo và nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp cho thị trường những loại gạo đồng nhất về chất lượng, sử dụng những loại bao bì có kích cở khác nhau phù hợp với nhu cầu của khách hàng như đóng gói gạo 1kg, 2kg, 5kg, 10kg, 20kg…Hay tìm những sản phẩm mới, gạo, nếp có sự khác biệt đáng kể so với các loại sản phẩm hiện tại.

+ Đa dạng hóa thị trường: bên cạnh những thị trường truyền thống như Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ la tinh...các công ty đã và đang mở rộng thêm các thị trường tiềm năng như mở rộng thêm thị trường Châu Phi, Trung Đông, Châu Úc.

Như vậy, nhờ vào sự cạnh tranh mà các công ty trong ngành đang ngày càng trở nên mạnh hơn, đủ sức nhắm đến mục tiêu chinh phục thị trường thế giới.

- Chính sách của nhà nước:

+ Về phía chính phủ

Chính phủ có nhiều chính sách hỗ trợ cho ngành như: Chính sách khuyến khích ngành phát triển như: “chính sách cho nông dân vay vốn phát triển sản xuất, thâm canh, chính sách đầu tư thủy lợi, công nghiệp chế biến, tiêu thụ lúa gạo… đã góp phần quan trọng và phát triển ngành lúa gạo nước ta”. “Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng chiến lược phát triển lúa gạo nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia theo hướng sản xuất hàng hoá, điều chỉnh cơ cấu lúa gạo, nâng cao chất lượng, hạ giá thành, hình thành các vùng sản xuất lúa chất lượng cao, gắn chế biến và tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước về lương thực với dân số lên tới 90 triệu người vào năm 2010 và ổn định xuất khẩu về số lượng nhưng chất lượng và giá trị ngày một tăng” (trích nguồn tin Nhân Dân – 26/04/2006).

Chính sách hỗ trợ vốn: cung cấp tín dụng ngắn hạn với lãi suất ưu đãi thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển cho các công ty có nhu cầu, hoạt động về chế biến gạo xuất khẩu.

Chính sách hỗ trợ thuế: gạo xuất khẩu không chịu thuế xuất khẩu (thuế xuất khẩu bằng 0%).

+ Về phía địa phương:

UBND tỉnh An Giang đã chọn gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực số 1 của tỉnh. Vì vậy, tỉnh đã và đang có nhiều hỗ trợ để phát triển ngành. Theo kế hoạch phát triển của ngành nông nghiệp An Giang, đến năm 2010 gạo tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu trọng yếu của tỉnh.

5.1.1.2. Một số chỉ tiêu dự báo của ngành

- Nguồn nguyên liệu: Năm 1989, nước ta xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 310 triệu USD. Và liên tiếp trong mười năm sau, sản lượng lương thực nước ta mỗi năm tăng 1 triệu tấn14. Sản lượng lúa năm 2002 đạt 34,44 triệu tấn tăng so với năm 1991 là 14,4 triệu tấn (tăng 74,8%), bình quân mỗi năm tăng 1,225 triệu tấn, sản lượng lúa năm 2005 là 35,79 triệu tấn. Nếu vẫn giữ mức tăng trưởng này thì đến năm 2010 sản lượng lúa Việt Nam đạt 41,91 triệu tấn.

- Mức tiêu thụ của thị trường thế giới: Sản lượng và giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam liên tục tăng trong 5 năm qua. Sản lượng xuất khẩu của cả nước năm 2000 là 3,476 triệu tấn đến năm 2005 là 5,204 triệu tấn. Tốc độ tăng sản lượng tiêu thụ bình quân mỗi năm là 20%. Nếu vẫn giữ tốc độ này thì đến năm 2010 Việt Nam sẽ xuất khẩu 6,244 triệu tấn. Trị giá xuất khẩu thu về đạt trên 1,56 tỷ USD (nếu tính giá bán 250USD/tấn). Như vậy so với mục tiêu 1 tỷ USD là có thể thực hiện được (nếu chính phủ Việt Nam không hạn chế xuất khẩu).

- Mức tiêu thụ của thị trường nội địa: Hiện nay dân số nước ta khoảng 83 triệu người, mức tiêu thụ trong nước khoảng 18,25 triệu tấn (theo nguồn tin USDA). Đến năm 2010 dự đoán dân số Việt Nam khoảng gần 88,66 triệu người (nếu tốc độ tăng như hiện tại là 1,33%/ 1 năm). Với dân số như vậy thì mức tiêu thụ trong nước sẽ tăng lên khoảng 19,49 triệu tấn/ năm.


14 Nguồn tin Nhân dân - 26/04/2006

Xem tất cả 81 trang.

Ngày đăng: 05/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí