Rạn Nứt Trong Quan Niệm Về Hiện Thực Chiến Tranh

nên hầu hết các tác phẩm này chưa đi sâu vào sự khốc liệt cụ thể của đời sống chiến tranh, những đau thương mất mát cũng như những diễn biến tâm lý phức tạp của con người trong chiến tranh.

Tiếng vọng của sử thi vẫn còn trong văn học 1975 - 1985 thể hiện ở đề tài, cảm hứng song đã có những khác biệt. Văn xuôi vẫ n đậ m chấ t sử thi nhưng nộ i dung hiệ n thự c đã được mở rộng , “một số tác phẩm đã mạnh dạn hơn khi chọn những thời điểm khốc liệt, gay cấn của chiến tranh làm bối cảnh để khám phá tâm lý, tính cách con người” [52,193]. Khi chiến tranh đã lùi lại phía sau, từ một điểm nhìn mới, điểm nhìn của thời hiện tại ngẫm về quá khứ với một khoảng cách cần thiết, nhà văn mới có điều kiện để nghiền ngẫm, suy tư, quan sát hiện thực từ nhiều phía, để nhận diện nó trong tính tổng thể toàn vẹn và tính nhiều mặt của sự kiện.

Đọc loạt tác phẩm đầu tiên viết về chiến tranh sau chiến tranh Đất miền Đông, Năm 1975 họ đã sống như thế, Nắng đồng bằng, Đất trắng, Ký sự miền đất lửa, Trong cơn gió lốc, Miền cháy, Biển gọi...., người đọc vẫn nhận thấy trong đó ngân vang âm hưởng sử thi ở xung đột, lập trường, nhân vật, giọng điệu... Vẫn là cuộc đấu tranh căng thẳng giữa ta và địch, vẫn là lập trường của lợi ích dân tộc, lợi ích cộng đồng, vẫn là những gương mặt anh hùng, là giọng điệu ngợi ca, khẳng định... nhưng những trang văn xuôi đậm chất hiện thực sau 1975 đã mang đến cho độc giả một cái nhìn chân thực, sinh động về cuộc chiến ác liệt của dân tộc. Đó chính là những nét khác biệt - những rạn nứt trong cảm hứng sử thi của văn xuôi sau chiến tranh.

2.1.1.1. Rạn nứt trong quan niệm về hiện thực chiến tranh

Hiện thực chiến tranh trước 1975 là hiện thực lý tưởng, là hiện thực của những biến cố, sự kiện. Sau 1975, hiện thực chiến tranh đã được tái hiện chân thật, gần gũi hơn, đó là hiện thực tồn tại như nó đang có, là hiện thực của số phận con người. Khảo sát sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực của văn xuôi viết về chiến tranh thời kỳ hậu chiến, chúng tôi quan tâm đến sự khác biệt trong cách xây dựng không gian - không gian chiến trường - bối cảnh để dung chứa những sự kiện lớn lao. Đó là không gian chiến trường hoành tráng với đầy đủ những tri thức về chiến tranh: các loại binh chủng, tổ chức quân đội, các loại vũ khí, kinh nghiệm,

tinh thần chiến đấu của hai phía… Ngay trong không gian ấy đã có những điểm khác biệt so với văn xuôi sử thi.

Văn xuôi hậu chiến viết về chiến tranh vẫn có những khoảng không gian lãng mạn như “đường ra trận mùa này đẹp lắm” trong thơ Phạm Tiến Duật. Đó là không gian lãng mạn của sử thi: “những đoàn thanh niên xung phong cười nói râm ran, những em học sinh đội mũ rơm mang lá ngụy trang, những đoàn xe bật đèn gầm nối nhau lầm lì đi ra mặt trận, những đêm mắc vòng trên bãi khách, những câu chuyện đùa vui với cô giao liên, những cuộc họp đồng hương giữa đỉnh Trường Sơn, những buổi phổ biến chiến thắng, … tất cả mang một màu sắc thơ mộng vì ở đó, sự ác liệt không phải lúc nào cũng xảy ra” [26,19], là không khí ra trận hào sảng và niềm tin tưởng tuyệt đối vào chiến thắng: “Sáng nay tiểu đoàn làm lễ xuất quân. Buổi lễ giản dị nhưng cảm động và trang nghiêm....Trung đội gió lốc lại được nhận cờ. Chúng tôi sẽ chiến đấu xứng đáng với lá cờ ấy. Có thể mỗi chúng tôi sẽ lần lượt ngã xuống, nhưng lá cờ phải đi tới đích vinh quang, tới ngày toàn thắng” [31,11-12], là lời thề thiêng liêng, quả cảm của những chiến sĩ hải quân kiêu hãnh và anh hùng trước biển khơi lồng lộng: “Chúng ta kiên quyết giải phóng miền Nam. Tổ quốc Việt Nam nhất định phải được thống nhất! Không một trở lực nào, một kẻ thù nào có thể ngăn được bước chân ta!...” [28,77]. Chất sử thi và cảm hứng lãng mạn còn thể hiện ở những không gian thiên nhiên tươi đẹp, giàu chất thơ: “Những ta-man có từ ngàn đời trẻ lại, khoác trên mình tấm áo xanh tuyệt vời ấy để chào đón muôn loài... Người chiến sĩ nào hành quân ra trận qua những ta- man mà không thấy dội lên, thấy cồn cào trong lòng mình những ý nghĩ đẹp đẽ, thiêng liêng về đất đai, lãnh thổ, về sự sống và cái chết, về hạnh phúc và tình yêu” [31,127]. Bằng liên tưởng thú vị, độc đáo và những hình ảnh giàu sức gợi, Khuất Quang Thụy đã vẽ trước mắt người đọc một trảng cỏ bao la, xanh rờn, mướt mát. Ta-man ấy giàu sức sống không phải chỉ bởi vẻ đẹp của thiên nhiên mà quan trọng hơn, bởi sự tha thiết của con người, sự gắn bó máu thịt của người lính với Tây Nguyên, đó chính là tình cảm mà nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” (Tiếng hát con tàu).

Trong những không gian cộng đồng rộng lớn, các tác giả đã phản ánh khá chân thực cuộc chiến ác liệt, lâu dài của quân và dân ta. Với chiêm nghiệm của những người từng trải, các nhà văn hậu chiến viết về không gian chiến tranh không chỉ bằng cái nhìn sử thi mà còn bằng con mắt hiện thực. Bên cạnh những không gian lý tưởng, không gian thiên nhiên lãng mạn, đã có không gian hiện thực trần trụi, không gian xã hội hậu chiến, không gian thể hiện tính cách con người. Đó chính là sự khác biệt rò nét trong chất sử thi của văn xuôi thời hậu chiến.

Văn xuôi chiến tranh trước 1975 cũng có những trang viết về những tàn phá của chiến tranh nhưng trên cái nền mất mát, đau thương ấy, người ta vẫn thấy chất sử thi đậm nét, ví như đoạn Nguyễn Trung Thành miêu tả Rừng xà nu: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương... Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt... rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn... Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên... Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế, hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng” (Rừng xà nu). Ấn tượng đậm nét nhất về đoạn văn vừa rồi không phải là sự hủy diệt của bom đạn kẻ thù với rừng xà nu mà là sức sống mãnh liệt của cây xà nu, giống như sự kiên cường, quả cảm của các thế hệ dân làng Xô-man. Đó chính là điều nhà văn gửi gắm, là tinh thần sử thi của thời đại.

Văn xuôi hậu chiến đã có những trang văn như thế, những không gian tô đậm ý chí con người để từ đó khẳng định sức mạnh của con người cách mạng, nhưng không gian ấy không hề lãng mạn mà đậm chất hiện thực. Trong trận chiến giữ vùng chiến lược Tàu Ô của trung đoàn 29 (Đất miền Đông), mảnh đất Tàu Ô đã bị quần nát bởi bom đạn kẻ thù. Nói về sự khốc liệt ấy, tác giả đã đặt điểm nhìn vào tên tướng giặc: “mặt đất ở những khu vực đó còn ghê gớm hơn những bức ảnh các nhà du hành vũ trụ Hoa Kỳ chụp được trên mặt trăng. Tôi không giải thích được làm sao Cộng sản vẫn cứ sống, vẫn cứ từ dưới mặt đất nát vụn ấy chặn đứng các cuộc tấn đánh của ta” [9,244]. Hiện thực khách quan, chân thật hơn thông qua điểm nhìn từ bên kia chiến tuyến càng nhấn mạnh sự hoang tàn của chiến tranh và

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.

sức sống mãnh liệt, sức chịu đựng kỳ lạ của người cộng sản. Đó là minh chứng rò ràng nhất cho sức mạnh của quân giải phóng và sự khiếp nhược của kẻ thù trước sức mạnh của những chiến sĩ Việt Cộng. Tuy nhiên, trong văn xuôi hậu chiến, không ít những trang viết đơn thuần mô tả không gian hiện thực khủng khiếp của chiến tranh để tố cáo tội ác của kẻ thù, để tố khổ cho vô vàn thảm cảnh con người phải chịu đựng trong chiến tranh. Khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam, ở đâu có máy bay của kẻ thù, ở đó có những trận bom hủy diệt, tàn phá khủng khiếp: “Lửa vẫn đang cháy. Cả những cây mít cổ thụ…cũng cháy ngùn ngụt như bó đuốc… . Rừng dương liễu mất đi từng mảng lớn, đất đỏ hóa đen kịt, gốc cây bị bom sát thương phạt ngang mặt đất, xơ tướp như bị xé xác… Một con trâu bị thương vào cổ sắp chết, mắt trợn trừng, miệng kêu ọ ọ một cách tuyệt vọng, bốn vó giãy đành đạch, máu sủi bọt phun phì phì ở vết thương…. “ [29,19]. Trải qua hai cuộc chiến, “Việt Nam đã trở thành đất nước bị ném nhiều bom nhất trong lịch sử thế giới. Tính bình quân mỗi người dân Việt Nam từ cụ già đến trẻ sơ sinh phải chịu đựng trên dưới 250kg bom đạn Mỹ” (http://vi.wikipedia.org). Rất nhiều mảnh đất đã trở thành vùng đất lửa (Ký sự miền đất lửa), nhiều nơi địch muốn biến thành vùng đất chết (Miền cháy). Hơn ba mươi năm đã trôi qua, nhưng hậu quả chiến tranh còn đè nặng trên dải đất hình chữ S nói chung và mảnh đất Quảng Trị nói riêng. Chiến tranh đã qua đi, nhưng không ít cái chết từ sâu trong lòng đất vẫn đe dọa, rình rập con người. Quảng Trị - cái dải đất nhỏ hẹp đã phải chịu sức tàn phá ghê gớm của bộ máy chiến tranh, dải đất diễn ra cuộc đọ sức một mất một còn giữa những người dân nghèo lam lũ nhưng gan góc với kẻ thù xâm lược suốt hai mươi năm, đến tận bây giờ vẫn mang trong lòng vết thương nhức nhối của chiến tranh. Đó là câu chuyện được kể trong Miền cháy của Nguyễn Minh Châu... Viết về con đường huyền thoại, đường Hồ Chí Minh trên biển với đoàn tàu không số, Biển gọi của Hồ Phương đã tái hiện một không gian dữ dội của biển thẳm với những trận cuồng phong, những đợt sóng ngầm sôi sục, những cơn bão đột ngột, những cuộc chiến gay go, ác liệt - đó không còn là không gian đại dương bao la, xanh thẳm hiền hòa mà là biển khơi đầy giông tố, nguy hiểm, sẵn sàng nhấn chìm và nuốt chửng con người.... Sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn trong văn xuôi 1975-1985 đã

tạo ra nét khác biệt trong cảm hứng sử thi của văn xuôi giai đoạn này và trở thành điểm xuất phát cho văn xuôi giai đoạn sau. Nhiều không gian đẫm máu và nước mắt khác được kể trong văn xuôi viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới: một hiện thực rách nát, nhàu nhĩ, bi thảm (Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng...).

Văn xuôi Việt Nam thời kỳ hậu chiến 1975-1985 - 8

Văn xuôi hậu chiến vẫn vang vọng âm hưởng sử thi khá rò nhưng đã gần hơn với hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Sự hòa quyện giữa yếu tố lãng mạn và hiện thực ấy đã tạo nên một diện mạo rất riêng của văn xuôi hậu chiến viết về đề tài chiến tranh, đã khởi đầu cho những thay đổi trong quan niệm về hiện thực trong văn xuôi hậu chiến viết về đề tài thế sự - đời tư: từ hiện thực của các biến cố, sự kiện đến hiện thực của số phận con người, từ hiện thực đơn giản, một chiều đến hiện thực phức tạp, đa chiều…

2.1.1.2. Rạn nứt trong quan niệm về con người

Theo Hêghen, “sử thi là biểu hiện hạt nhân nòng cốt của nội dung dân tộc”. Bởi vậy, sử thi chỉ ra đời khi con người có ý thức dùng nó để ghi tạc lại những giây phút vàng son trong lịch sử dân tộc, và thông qua những tấm gương anh hùng để cổ vũ chiến đấu và giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ kế tiếp. Văn học Việt Nam 1945 - 1975 phát triển trong điều kiện chiến tranh, do đó nó chịu những tác động có tính quy luật lên đời sống văn học. Một trong những quy luật đó là: lợi ích cộng đồng trở thành nguyên tắc hàng đầu. Tuân theo quy luật ấy, nhân vật văn học là những con người mới - những sản phẩm hoàn hảo của hiện thực cách mạng. Văn xuôi viết về chiến tranh thời kỳ hậu chiến đã nhìn thấy bên cạnh con người cộng đồng lý tưởng còn có con người cá nhân sinh động, phức tạp. Sự hòa quyện giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng và cá nhân trong con người đã thể hiện những thay đổi đầu tiên trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn xuôi thời kỳ này.

Văn xuôi viết về chiến tranh sau chiến tranh đã tái hiện những chân dung tinh thần rất đẹp của người lính. Nhân vật trong Đất trắng, Trong cơn gió lốc, Nắng đồng bằng, Năm 1975, họ đã sống như thế, Miền cháy, Đất miền Đông, Biển gọi… là những hình ảnh tiêu biểu của con người Việt Nam trong chiến tranh: dũng cảm, gan góc, vượt mọi khó khăn, gian khổ, chấp nhận hy sinh, sẵn sàng xả thân và dâng

hiến vì một lý tưởng duy nhất: độc lập - tự do - thống nhất Tổ quốc. Những thế hệ người lính đã kế tiếp nhau đứng lên chiến đấu, kiên trung cho đến chiến dịch cuối cùng, chính họ đã góp phần làm nên lịch sử.

Đất miền Đông là bộ tiểu thuyết sử thi của Nam Hà, đã dựng lại một bức tranh hoành tráng về các chiến dịch khác nhau: cuộc chiến đấu trên đường 13 để bảo vệ vùng chiến lược Tàu Ô, chiến dịch giải phóng Phước Long và chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn. Với cái nhìn trung thực và toàn diện, với những trải nghiệm của người lính, Nam Hà đã phản ánh sinh động những sự kiện lớn nhất trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trong chặng đường cuối cùng của cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Đọc Đất miền Đông, người đọc sẽ không quên được sự hy sinh anh dũng của rất nhiều chiến sĩ, trong đó có cái chết của trung đội trưởng Bình. Bình ngã xuống, trong ba lô của anh có rất nhiều gói đất, đất của những nơi anh đã đi qua (đất phù sa Sông Hồng, đất đồi Vĩnh Linh, đất đường 9 Trung Lào, đất Tây Nguyên, đất đường 13 miền Đông Nam Bộ…). Có lẽ, Bình sẽ tiếp tục để trong ba lô của mình, sẽ yêu quý và giữ gìn cả những gói đất của những nơi anh sẽ đi qua. Bình hy sinh khi chưa kịp thực hiện trọn vẹn ý nguyện ấy. Và đồng đội của anh, những người lính can đảm sẽ thay anh tiếp tục gìn giữ và bổ sung những miếng đất quê hương. Bởi “những gói đất ấy là biểu hiện tình yêu tổ quốc, biểu hiện ý chí và quyết tâm giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc, biểu hiện tinh thần quốc tế vô sản” [9,502] của họ.

Âm hưởng sử thi vẫn chi phối văn xuôi hậu chiến ở cách xây dựng nhân vật. Nhân vật người lính vẫn là những mô hình lý tưởng của con người cộng đồng được thể hiện qua tầm vóc của chiến công, của khát vọng xả thân, dâng hiến. Hiện lên trong những trang văn xuôi hậu chiến vẫn là một “lớp thanh niên...bị cuốn hút vào cái không khí hừng hực của cuộc chiến đấu” [26,93]. Họ tham gia chiến đấu với lý tưởng cao cả đậm màu sắc sử thi “thống nhất đất nước là trên hết, trên hết tất cả, trên cả tình yêu, trên cả sự hy sinh, trên cả cái chết” [27,345], với niềm tự hào, niềm tin sâu sắc ở tương lai, với khát vọng xả thân, sẵn sàng hy sinh, chấp nhận những cái chết dù vô danh nhưng ý nghĩa ... Người chiến sĩ giải phóng dù đối mặt với nguy nan, thử thách cũng không chịu đầu hàng kẻ thù, họ kiên trung cho tới hơi

thở cuối cùng. Tất cả đều đẹp và hào sảng biết bao! Chân dung người lính hiện lên ngạo nghễ và hùng tráng, gương mặt thời đại phơi phới lạc quan.

Trên những “con tàu nhỏ nhoi, đơn độc, len lách tìm tòi, khai mở những con đường mới trên biển cả mênh mông, lạ lẫm và đầy sóng gió, giông bão và giữa vây bủa trùng điệp của quân thù” [54], những chiến sĩ hải quân đã vượt qua rất nhiều nguy hiểm, chạm trán và chiến đấu với địch, phải tự hủy tàu, dạt lên bờ, đói khát, lạc hướng, đổ máu..., có lần tìm lại được đồng đội, cũng có lần đồng đội vĩnh viễn nằm lại một góc rừng, hoặc chìm sâu mãi mãi dưới đáy đại dương... Ý chí kiên định, lòng trung thành tuyệt đối đã giúp họ có sức mạnh đối đầu với những thử thách tưởng như không thể vượt qua được. “Ai dám bảo chiến tranh đã biến những con người thành những con vật? Không! Có hai thứ chiến tranh!... Chúng ta tiến hành chiến tranh, cuộc chiến tranh giải phóng thiêng liêng, thần thánh này, dầu cho có lúc chúng ta bị nhận chìm xuống tận cùng của đau đớn và cùng khổ, nhưng rò ràng chúng ta vẫn luôn là những Con Người - những Con Người viết hoa, đẹp nhất” [28,206]. Sự hiện diện của những chiến sĩ hải quân - những dũng sĩ trên biển là những “đóng góp, hy sinh âm thầm của những người con trung thành của Tổ quốc trên biển cả mênh mông và thảm khốc” [28,17].

Thấp thoáng trong những trang viết trữ tình và lãng mạn của Đỗ Chu là vẻ đẹp lấp lánh của những người lính. Vẻ đẹp ấy tỏa sáng trên tuyến lửa, trên mặt trận đầy gian nan, thử thách (sự hy sinh dũng cảm mà thầm lặng của chàng lính thủy, sự kiên cường trong tiếng hát mang lại sức mạnh cho người chiến sĩ của cô văn công vốn nhỏ bé, trầm tĩnh - Trung du) và càng bền bỉ hơn trong công cuộc xây dựng đất nước (tấm lòng bao dung, độ lượng của một người lính can trường, quả cảm đối với những người bên kia chiến tuyến - Ngọn lửa, ước mơ cháy bỏng được xây dựng nên những ngôi nhà mới của Nghĩa - Một người lính trở về, tình nghĩa thủy chung, nhân hậu của Nhuần - Đất bãi…). Truyện ngắn của Đỗ Chu giản dị, hồn hậu nhưng đọng lại một niềm tin son sắt vào bản chất tốt đẹp của người lính.

Viết tiếp về chiến tranh, các nhà văn đã chú ý khai thác các cung bậc tình cảm của người lính, tình bạn bè - đồng chí, tình yêu... Những cảm xúc trong sáng, vẫn gắn cái riêng nhỏ bé trong cái chung lớn lao của dân tộc... là động lực thôi thúc

người lính chiến đấu. Cảm động nhất và quý giá nhất với người lính có lẽ là tình đồng đội. Tình cảm thiêng liêng ấy giúp những con người xa lạ trở thành một khối đoàn kết, yêu thương, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, thậm chí sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình vì đồng đội. Thực tế trong chiến tranh, tình đồng đội đã vượt lên trên tất cả, làm rung động đến tâm can con người. Đó là câu chuyện của trung đội gió lốc, trong đêm hành quân thần tốc với bao sức nặng trên vai nhưng đã cương quyết không bỏ rơi đồng đội bị thương ở lại (Trong cơn gió lốc). Trong Nắng đồng bằng của Chu Lai, chiến sĩ đặc công Toàn vì không muốn trở thành gánh nặng của đồng đội khi anh bị thương, đã tự sát bằng trái lựu đạn. Có thể có phần hơi tiêu cực trong lựa chọn của Toàn nhưng đó là sự tự giải thoát (khi anh biết mình không thể qua khỏi bởi vết thương rất nặng), là sự bớt đi gánh nặng cho đồng đội, vì phía trước vẫn là cuộc chiến đấu gay go, ác liệt. Linh đã bất chấp nguy hiểm, lao xuống dòng lũ đang gầm thét để cứu Năm Thúy cũng vì tình đồng đội. Thuyền trưởng Vũ dù trong hoàn cảnh nguy nan nhất cũng không bỏ mặc đồng đội mình nằm lại cánh rừng, anh quyết tâm tìm bằng được các thủy thủ, khi họ hy sinh, không có điều kiện để chôn cất, anh dùng lá cây phủ lên mình đồng đội (Biển gọi)... Hiểu sâu sắc ý nghĩa tình đồng chí, đồng đội của người lính mới có thể thấm thía sự xúc động, xốn xang của những cựu chiến binh mỗi khi nhắc về chiến trường và đồng đội. Chiến tranh đã qua gần nửa thế kỷ nhưng có những mối xúc động thiêng liêng vẫn đập trong trái tim những người lính đã từng vào sinh ra tử. Mối xúc động ấy có khả năng truyền cảm mạnh mẽ đến những thế hệ được sinh ra trong hòa bình. Thiết nghĩ, đó là một trong những điều đáng quý nhất văn xuôi hậu chiến mang lại cho độc giả.

Bên cạnh đó, hình ảnh nhân dân được miêu tả chân thực, gần gũi, thủy chung trong nghĩa tình quân dân. Đó là sự cưu mang, đùm bọc, chở che cho cán bộ, chiến sĩ của những người dân trung kiên, quyết tâm bám trụ trên những mảnh đất thân yêu của mình: má Hai Chờ, ông Hai Trụ, Sáu Dần, Tám Kim (Đất trắng), mẹ Êm (Miền cháy)... Ngọn đèn Hoa Kỳ của má Hai Chờ đã trở thành một hình ảnh quen thuộc, đã hóa tâm hồn trong trái tim mỗi chiến sĩ trung đoàn 16; cũng ngọn đèn ấy đã khiến một người lầm đường, lạc lối như Lựu biết quay về với trung

Xem tất cả 171 trang.

Ngày đăng: 21/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí