thành nhưng kết thúc nhân vật chính vẫn được ở bên người mà chàng thương yêu. Khi tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề kết thúc, chiến thắng tuy chưa thuộc về chính nghĩa là đảng Từ Bi nhưng nhân vật chính là tráng sĩ Bồ Đề đã để lại trong tâm trí người đọc là sự cảm mến, ở chàng có nét hao hao với Thạch Sanh hay những nhân vật theo môtíp “tráng sĩ” trong thế giới cổ tích của nhân dân. Tráng sĩ Bồ Đề hay Bạch Hạc đều phi phàm nhưng họ cũng thật đời thường với những mối tình lãng mạn, những ham muốn tự nhiên của tạo hóa. Khi nhà văn diễn tả tâm trạng của Bồ Đề và Tú Lan” Bồ Đề nhìn theo bóng giai nhân, lòng mênh mang khó hiểu... chàng cảm động rạt rào vì một người con gái” [120, tr. 614], “Bồ Đề rộn rạo cả tâm hồn. Lúc Tú Lan đứng lên, chàng gặp ngay cặp mắt nàng quay nhìn mình. Cái nhìn đủ nói dài về tình yêu của hai linh hồn hào hiệp ấy” [120, tr. 675]. Khi Kim Chi gặp tráng sĩ Bạch Hạc tại phủ Vò Vệ Hầu:
“ …Thiếu nữ (Tức Kim Chi hay còn gọi là Ngọc Nữ) lẳng lơ hỏi:
-Thế thì còn là gì nữa?
…Thiếu nữ đỏ bừng mặt, trách ngọt ngào:
-Tráng sĩ Bạch Hạc say rồi! Bạch Hạc mê loạn tâm thần:
- Vâng, tôi say, say lắm. Không phải là say rượu, không phải say kiếm pháp, tôi say vì cái nhan sắc diễm lệ của mỹ nhân.
Bạch Hạc còn nói nhiều nữa, nhưng người thiếu nữ nguýt chàng âu yếm”… [120, tr. 689- 690].
Như vậy, Trương Tửu đã vận dụng linh hoạt các yếu tố trong văn học dân gian đồng thời ông kết hợp những nét mới trong tư duy nghệ thuật do tiếp thu của nền văn học phương Tây để cho ra đời tác phẩm văn xuôi hiện đại nhằm thu hút sự chú ý của công chúng đọc giả. Nhân vật anh hùng trong sử thi của văn học dân gian Việt Nam đã được vận dụng sáng tạo. Lấy ví dụ tiêu biểu:
Nhân vật sử thi | Nhân vật tiểu thuyết | |
Tên nhân vật | Đam San | Bồ Đề |
Thân hình, diện mạo | - “Dẻo như con rắn trong hang, con hùm bên bờ suối” [18, tr. 27] | - “Dáng dấp khoan thai” [120, tr. 601] - “khuôn mặt Bồ Đề đẹp như một thứ đẹp hùng vĩ, thiên thần” |
-“Ngọt ngào mà mạnh như một | ||
- “Tiếng nói cười của chàng | nghiêm lệnh” [120, tr. 607] | |
Tiếng nói, tiếng | nghe như sấm vang sét đánh. | - “Giữa ánh lửa hồng dáng điệu và |
cười | Chẳng ở đâu có người cười nói | lời nói của Bồ Đề như của một |
như Đam San” [18, tr. 27] | thiên thần làm rung động mãnh liệt | |
các tâm hồn có mặt” [120, tr. 674] | ||
- “Đầu đội khăn kép, vai | ||
Trang phục | mang túi da” - “Đam san cưỡi ngựa ra đi. Chàng khoác áo màu đen, màu trắng. Tay cầm lao. Gươm giắt | -...“một ngựa, một người xách kiếm sống cuộc đời lãng du” [120, tr. 620] |
thắt lưng” [18, tr. 26] | ||
- Bồ Đề là người dũng cảm, tài | ||
giỏi nhưng luôn có thái độ điềm | ||
đạm, kín đáo. Bồ Đề được đánh | ||
giá qua lời của Bạch Hạc chàng | ||
- Đam San dũng cảm, gan dạ | là người “giàu lòng nghĩa hiệp, | |
muốn vươn tới đỉnh cao của vũ | giàu lòng nhân từ”. Qua lời Nam | |
trụ, chàng một mực đi tìm | Việt Vương “chưa hề gặp người | |
Thể lực, hành động và tài năng | đường đến nhà nữ thần mặt trời. Đam San có sức khỏe phi thường “Chặt sườn núi... giết tê | nào hiên ngang và hành động hợp lẽ như tráng sĩ”. Bồ Đề có tài bơi lội “bơi lội ngụp lặn |
giác... giết hùm... giết quạ | chàng đều thông thạo hết” [120, | |
diều... giết ma quỷ...” [18, tr. | tr. 611], đặc biệt là tài kiếm | |
29] | pháp “Bồ Đề là một tay kiếm | |
cao cấp, trong nước ít có người | ||
sánh kịp...” [120, tr. 618]. Trong | ||
tất cả những lần giao đấu Bồ Đề | ||
luôn mưu trí, dũng cảm. |
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Cấu Có Nội Dung Vào Vấn Đề Trung Tâm Của Câu Chuyện
- Văn xuôi Trương Tửu trong tiến trình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX - 18
- Tiếng Pháp Được Trương Tửu Sử Dụng Trong Các Tác Phẩm
- Văn xuôi Trương Tửu trong tiến trình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX - 21
- Văn xuôi Trương Tửu trong tiến trình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX - 22
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
- Tính cách nhân vật phát | - Trong toàn bộ tác phẩm, tính | |
triển tự nhiên. Tác giả dân | cách nhân vật phát triển tự nhiên | |
gian miêu tả nhân vật Đam | từ suy nghĩ đến hành động. | |
San là người anh hùng của bộ | Trương Tửu khắc họa hình ảnh | |
tộc rất thẳng thắn, rò ràng và | nhân vật Bồ Đề luôn là người tôn | |
dứt khoát, Đam San đã đánh | thờ sự hào hiệp, thẳng thắn, dứt | |
bại hai tù trưởng để bảo vệ | khoát, không chấp nhận những | |
hạnh phúc, danh dự và quyền | cái xấu tồn tại trong xã hội. | |
lực. | Chàng thấy bọn lục lâm thảo | |
- Đam San luôn mang khát | khấu Ngũ hổ ức hiếp người | |
vọng trở thành tù trưởng hùng | lương thiện liền ra tay trừng trị. | |
mạnh, chàng đã không bằng | - Chàng không bao giờ tha thứ | |
lòng với những gì đã có đó là | cho kẻ phản bội. Không thể phản | |
hai người vợ với trăm chiêng | bội sự tin tưởng của rất nhiều | |
núm, trăm chiêng bằng, trăm | người trong Đảng, không thể | |
Phát triển tính | con voi, rừng đầy tràn nồi | phản bội Tú Lan. |
cách nhân vật | đồng, đồng nước đầy tràn nồi | - Là người kín đáo, trọng tình |
đồng, lợn dê đầy sân, tiếng | trọng nghĩa, luôn suy xét trước | |
tăm vang tận thần núi... | mọi hành động. Cuối cùng Đảng | |
- Đam San cương quyết và | Từ Bi thất bại, mục đích và lý | |
dứt khoát đi bắt nữ thần mặt | tưởng của Bồ Đề không thành. | |
trời về làm vợ cho dù phải | Đây cũng là một trong những thất | |
đối diện với biết bao hiểm | bại mà con người thường gặp phải | |
nguy đến tính mạng. Cuối | trong đời sống. Nhà văn để cho | |
cùng Đam San chết trong | nhân vật trải qua thất bại nhưng | |
rừng sáp đencủa thần | ngòi bút của nhà văn khá sắc xảo | |
Sunyrít. Đây là cái chết của | khi ông diễn đạt thành công tâm | |
người anh hùng trên hành | trạng của nhân vật ở phần cuối tác | |
trình vươn tới khát vọng lớn | phẩm, dù ở vào thế thua phải nhìn | |
lao, chân chính, đáng ngợi | nhận lại cục diện, phải đánh giá | |
ca, chân trọng. | lại tình hình, có chiến lược đứng | |
lên sau thất bại. |
- Qua nhân vật Bồ Đề, cho thấy | ||
nhà văn Trương Tửu đã đưa yếu | ||
- Qua nhân vật Đam San có | tố nhân vật trong văn học dân | |
thể thấy tác giả dân gian | gian vào tác phẩm một cách tài | |
miêu tả nhân vật theo kiểu | tình, nhà văn kết hợp với những | |
khái quát hóa về một con | yếu tố hiện đại để đưa vào tác | |
người cá nhân có sức mạnh | phẩm một luồng sinh khí mới, | |
siêu nhiên để thể hiện một | nhân vật anh hùng trong trang | |
khát vọng lớn muốn khám | sách của ông vừa mang nét anh | |
Tổng kết | phá, chinh phục tự nhiên của | hùng sử thi nhưng lại rất gần với |
cả một cộng đồng, dân tộc. | đời sống con người của xã hội | |
Đam San là một anh hùng | hiện đại. Nhân vật hội tụ đủ mọi | |
mang tính sử thi trong văn | trạng thái, cảm xúc, có yêu, có | |
học dân, là biểu hiện cho lý | ghét, gặp mọi hoàn cảnh nhưng | |
tưởng thẩm mĩ và đạo đức | luôn “phụng thờ nhân đạo” [120, | |
mà tác giả dân gian gửi gắm | tr. 750]. Ngay nhan đề tác phẩm | |
trong đó. | đã khiến người đọc liên tưởng | |
tới con người trong dân gian | ||
“Tráng sĩ Bồ Đề”. |
Văn học dân gian với những tiền đề là cơ sở rất quan trọng để văn học hiện đại Việt Nam phát triển vào đầu thế kỷ XX với sự tiếp thu, kế thừa. Cho đến đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam mới chứng kiến một sự chuyển mình của văn học với tên tuổi của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Bửu Mọc, Trần Quang Nghiệp,… và nhất là thế hệ nhà văn hiện thực như Nam Cao, Trương Tửu, Vũ Trọng Phụng,... Mỗi nhà văn đã tìm cho mình một hướng đi riêng nhưng trên nền tảng luôn giữ gìn bản sắc, tiếp thu ảnh hưởng mới có sáng tạo để đi đến thành công trong sự nghiệp cầm bút. Trương Tửu cho thấy các sáng tác phong phú, đa dạng cả về nội dung và nghệ thuật. Mặc dù nhà văn cũng có những hạn chế nhất định như xây dựng nhân vật chưa mang tính điển hình cao. Nhưng đặc biệt, trong một số sáng tác văn xuôi rất mới của ông lại được xây dựng trên phông nền văn học dân gian, từ “sự lặp lại
của các mô típ trong văn học dân gian là đặc điểm nổi trội làm nên tính truyền thống vững bền của hệ thống thẩm mĩ” [151, tr. 19], những môtíp, người anh hùng xuất chúng mà người đọc thường bắt gặp trong các truyện cổ tích, truyền thuyết, sử thi... được nhà văn đổi mới, cách tân bằng cá tính sáng tạo của mình. Đó là kết quả tất yếu của sự giao thoa giữa văn học dân gian và văn học hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XX và cũng là thành công đáng kể của văn xuôi Trương Tửu khi ông vận dụng văn học dân gian để đưa vào sáng tác như một biện pháp nghệ thuật mới mẻ. Không riêng một số tác phẩm có sử dụng trực tiếp nguồn tư liệu của văn học dân gian, mà thông qua giá trị của các tác phẩm nhà văn không chỉ thể hiện một tinh thần tranh đấu, một thực trạng của xã hội đương thời mà còn muốn gửi gắm vào mỗi sáng tác lời nhắn nhủ hãy giữ lấy những giá trị tinh thần của truyền thống dân tộc, hãy bảo tồn và phát huy nguồn tư liệu, thi liệu văn học dân gian.
Tiểu kết
Với lối văn luận đề, giàu chi tiết hiện thực đời thường khiến cho tác phẩm của Trương Tửu để lại nhiều dấu ấn trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Về phương diện nghệ thuật Trương Tửu có những nét riêng mà không thể phủ nhận năng lực nhạy cảm trước cái mới của ông. Nhà văn thể hiện khả năng xây dựng nhân tượng trưng qua phương thức trần thuật khá điêu luyện, bên cạnh đó ông có những phát hiện về tâm lý nhân vật rất chân thực, điều này giúp cho tính cách nhân vật trở nên rò rệt hơn. Ngôn ngữ trong văn Trương Tửu rất tự nhiên không cầu kì, trau truốt, đặc biệt việc vận dụng yếu tố truyền thống và hiện đại đã thể hiện sức sáng tạo của người cầm bút. Tác giả vận dụng linh hoạt các phương thức nghệ thuật để tạo nên một giọng văn phong phú, đa dạng.
Mười ba tác phẩm văn xuôi chứng minh Trương Tửu là một trong những cây bút đa tài, góp tiếng nói vào dòng văn học hiện thực phê phán những năm đầu thế kỷ XX. Cùng với các nhà văn tên tuổi như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Trương Tửu có một phong cách độc đáo, không lẫn với bất kì nhà văn nào cùng thời. Ông để lại dấu ấn là cây bút Hà Nội đa tài, thông minh và bản lĩnh. Một cuộc đời trải qua nhiều thăng trầm nhưng ông luôn là nhà văn, là người thầy đầy tâm huyết và trách nhiệm.
Với phong cách của một người làm khoa học, ông say mê với mỗi công việc dù ở bất cứ vị trí nào ông đều làm hết lòng, tận tâm. Thời gian, công chúng là thước đo đúng đắn nhất về con người và những tác phẩm văn xuôi, nghiên cứu, lý luận và phê bình mà ông từng cho xuất bản. Cách viết cá tính của ông không được hoàn toàn hoan nghênh ngay từ những ngày đầu tiên. Tuy nhiên, những nhận định khiên cưỡng, cực tả về ông rồi cũng qua đi, hôm nay trong xu thế xã hội mới Trương Tửu đã được nhìn nhận, đánh giá lại một cách đúng đắn, khách quan và khoa học hơn.
KẾT LUẬN
1. Tấm gương soi chiếu, phản ánh trung thực xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX là những trang văn xuôi của các nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố và nhất là gần đây, giới nghiên cứu đã và đang khẳng định sự đóng góp đầy ý nghĩa của giáo sư, nhà văn Trương Tửu.
Thế hệ nhà văn chân chính trong những năm đầu thế kỷ XX đã tạo nên một diện mạo mới trong nền văn học Việt Nam. Cũng như nhiều nhà văn hiện thực đương thời, Trương Tửu sáng tác những trang văn nhằm tái hiện cuộc sống ở nhiều góc độ khác nhau góp phần hoàn thiện bức tranh văn hóa, văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
2. Với trên một nghìn trang văn xuôi được viết trong thời gian năm năm từ 1937 đến 1942, Trương Tửu đã khẳng được vị trí trong nền văn xuôi hiện đại đầu thế kỷ XX. Thời gian là thử thách đối với những tác phẩm nghệ thuật nói chung và văn xuôi nói riêng. Mười ba tác phẩm của Trương Tửu là minh chứng khi đã vượt qua thời gian dài để đến tay độc giả hôm nay. Xem xét trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật đều cho thấy nhà văn đã có những đóng góp không nhỏ cho tiến trình phát triển của văn học Việt Nam. Về nội dung, các phẩm văn xuôi Trương Tửu có hệ thống đề tài mang tính khái quát cao. Về phương diện nghệ thuật, Trương Tửu thể hiện là một ngòi bút có cá tính. Ông chọn cho mình một lối đi riêng để thực hiện những trọng trách của người nghệ sĩ với cuộc đời. Phong cách văn xuôi của Trương Tửu luôn linh hoạt để tìm cho mình những dấu ấn riêng trên bức tranh văn học đầy màu sắc ở đầu thế kỷ XX.
3. Những năm đầu thế kỷ XX ở nước ta nở rộ lên những trang tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn với lời văn lãng mạn mang tính chủ quan nhưng không bao lâu các nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Kim Lân, Trương Tửu, Vũ Trọng Phụng... xuất hiện. Họ là những nhà văn cùng chí hướng khi đặt vấn đề hướng ngòi bút vào việc tả thực về một giai đoạn xã hội. Những trang viết chân thật nhưng thấm đượm chất nhân văn đã tạo ra vườn hoa văn học giai đoạn 1930 – 1945 đầy hương sắc. Trương Tửu cũng như các nhà văn cùng thời luôn trăn trở: Cần phải làm gì trước thực
trạng xã hội trong những năm đầu thế kỷ XX? Các nhà văn lựa chọn phương thức lấy ngòi bút thay cho súng, gươm, giáo, mác. Ngòi bút của họ đã phản ánh mặt trái của nhà nước cai trị đương thời, nhà nước thực dân phong kiến nhằm đồng hóa dân ta bằng những chính sách thâm độc. Qua đó cho thấy, những tác phẩm của Trương Tửu đã góp phần trong công cuộc “đấu tranh” của tầng lớp nhân dân nhằm tiến tới một xã hội tốt đẹp, phồn vinh.
4. Trước trào lưu hiện đại hóa nền văn học đầu thế kỷ XX, Trương Tửu trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của nền văn học phương Tây cùng vốn văn hóa, văn học truyền thống dân tộc, đặc biệt phải kể đến vốn kiến thức tự học ông đã góp công sức vào việc cách tân thể loại văn học Việt Nam theo hướng hiện đại hóa. Nhân vật trong sáng tác của Trương Tửu trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật đã cho thấy sự sáng tạo của nhà văn, đồng thời thấy được Trương Tửu có những nét khác biệt so với Tự lực văn đoàn. Trương Tửu thể hiện tính khái quát cao khi ông sớm tiếp cận và vận dụng phân tâm học Freud để tạo ra loại nhân vật có ẩn ức về sinh lý. Đồng thời nhà văn đã vận ngôn ngữ một cách linh hoạt các phương thức nghệ thuật từ kết cấu đến ngôn ngữ để sáng tác thêm sâu sắc.
Mặc dù sự tiến bộ của nền văn học nghệ thuật đã được minh định bằng chính thể loại, nhưng việc cách tân văn xuôi của Trương Tửu còn gắn liền với bối cảnh lịch sử văn học Việt Nam đang diễn ra nhanh chóng trong quá trình hiện đại hóa. Với các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bá Học, Đặng Trần Phất, Tự lực văn đoàn... đều là minh chứng thể hiện tính hiện đại của văn học Việt Nam. Văn xuôi Trương Tửu không nằm ngoài quỹ đạo ấy, nhưng nhà văn có sự khác biệt khi kết hợp các giá trị chân, thiện, mỹ trong tổng thể hệ thống văn xuôi một cách tinh tế. Qua đó thấy được Trương Tửu có khả năng nắm bắt bản chất của con người và xã hội, không chỉ có vậy, ông còn là nhà văn có vốn văn hóa phong phú. Ông tiếp thu nét mới của văn hóa phương Tây, đồng thời tạo ra những lát cắt đối lập với thuần phong mỹ tục của người Việt để dân ta thêm hiểu rò hơn về cái được và cái mất khi luồng văn hóa, văn học mới đang du nhập nhanh chóng vào nước ta lúc đó. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp văn xuôi của Trương Tửu cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định như nhà văn chưa chỉ rò căn nguyên sâu xa nỗi thống khổ của người