Đề tài “Vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hoá nhằm góp phần xây dựng các quan điểm phát triển đô thị ở Việt Nam đến năm 2020, lấy Hà Nội làm ví dụ” là rất cần thiết nhằm góp phần bổ sung lý luận, phương pháp luận và phương pháp đánh giá mức độ đô thị hóa các đô thị, đồng thời góp phần bổ sung các quan điểm phát triển đô thị ở Việt Nam.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Lý luận về đô thị và đô thị hoá là những vấn đề được các nhà kinh tế và xã hội rất quan tâm. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sự hình thành, phát triển của đô thị, về quá trình đô thị hoá nhưng số các công trình nghiên cứu (sách
, tạp chí) đánh giá mức độ đô thị hoá, xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hoá chưa nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu phân tích và phục vụ quản lý đô thị.
Trong tác phẩm “Kinh tế đô thị” của tác giả Trung Quốc, Giáo sư Nhiêu Hội Lâm do nhà xuất bản Trường Đại học Kinh tài Đông bắc xuất bản năm 1999 có đề xuất 3 chỉ tiêu để khảo sát và đánh giá thành quả phát triển kinh tế đô thị là dân số, đất đai và GDP. Thực chất là tác giả đã đề cập đến phương pháp phân tích đa tiêu chí nhưng số tiêu chí rất ít và mang tính tổng quát. Đồng thời tác giả chỉ giới thiệu mang tính định hướng và chưa cụ thể.
Trong tác phẩm “Kinh tế học” của PGS. TS. Phạm Ngọc Côn (NXB khoa học kỹ thuật, Hà Nội 1999) đã đề cập đến vấn đề phương pháp đánh giá mức độ đô thị hóa (ở chương 2, mục 3). Theo tác giả, “đô thị hóa là một hiện tượng kinh tế - xã hội rất phức tạp, việc đánh giá mức độ của nó gặp phải khó khăn từ hai mặt: Một là tính vận động của đô thị hóa, tức đô thị hóa là một quá trình, phương pháp đánh giá mức độ của nó cần sử dụng tiêu chuẩn thống nhất phản ánh những đặc trưng khác nhau của các thời kỳ đô thị hóa khác nhau. Mặt khác là tính đa dạng của nội hàm đô thị hóa, phương pháp đánh giá mức độ cần sử dụng tiêu chuẩn đơn giản để phản ánh nội dung phức tạp. Hiện nay, phương pháp đánh giá mức độ đô thị hóa chủ yếu có hai nhóm lớn: Phương pháp chỉ số chủ yếu và phương pháp chỉ tiêu thích hợp”. Tác giả đã giới thiệu sơ lược về các phương pháp. “Phương pháp chỉ
số chủ yếu” là phương pháp sử dụng ba chỉ tiêu cơ bản : dân số - sức lao động, sử dụng đất đai, cơ cấu sản xuất để đánh giá mức độ đô thị hóa. “Phương pháp chỉ tiêu thích hợp” bao gồm hai hệ thống chỉ tiêu: “Hệ số trưởng thành của đô thị” và “kích cỡ đô thị”. Trong hai hệ thống chỉ tiêu lại bao gồm các chỉ tiêu nhỏ như: Tổng dân số của khu vực, tổng mức chi trong năm tài chính của địa phương, số người làm việc trong ngành chế tạo, tổng giá trị sản lượng công nghiệp … Quy mô dân số đô thị, tăng trưởng dân số đô thị diện tích đô thị, vị trí khu vực đô thị v.v…
Có thể bạn quan tâm!
- Vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hóa nhằm góp phần xây dựng các quan điểm phát triển đô thị ở Việt Nam đến năm 2020, lấy Hà Nội làm ví dụ - 1
- Mô Hình Thành Phố Phát Triển Theo Kiểu Làn Sóng Điện
- Sự Lựa Chọn Vị Trí Của Các Doanh Nghiệp Và Hình Thành Đô Thị
- Đô Thị Hoá Tạo Ra Tiền Đề Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Của Các Đô Thị Và Của Cả Nước
Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.
Hệ thống chỉ tiêu được tác giả đưa ra mang tính chất giới thiệu sơ lược, tên các phương pháp và các chỉ tiêu chưa phản ánh nội dung kinh tế xã hội, do đó chưa thể vận dụng vào đánh giá mức độ đô thị hóa của một đô thị cụ thể cho Việt Nam.
Trên tạp chí “Habitat International” số 3 năm 2006 các tác giả Trung quốc Siu-Wai Wong, Bo-Sin Tang và B. Van Horen đã có bài viết về “Chiến lược quản lý đô thị hoá ở Trung quốc với trường hợp nghiên cứu : quản lý phát triển các quận của tỉnh Quảng châu (Strategic Urban Management in China: A Case Study of Guangzhou Development Distric)[48]. Để xây dựng định hướng cũng như đánh giá kết quả của quá trình đô thị hoá các tác giả đã đưa ra hệ thống gồm 6 tiêu chí với khoảng trên 40 chỉ tiêu (được trình bày tóm tắt trong phần 1.4.4.2.). Hệ thống tiêu chí và các chỉ tiêu này được xây dựng cho những đô thị đã có mức độ đô thị hoá và trình độ quản lý tương đối cao như Quảng Châu không thể áp dụng một cách giản đơn vào các thành phố khác. Hơn nữa, bài viết chưa nêu phương pháp định lượng đối với các chỉ tiêu do đó việc so sánh khó có thể thực hiện được.
Ở Việt Nam gần đây trong tác phẩm “Phát triển bền vững đô thị: những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của thế giới” của tác giả Đào Hoàng Tuấn do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 2008 đã đề xuất hệ thống tiêu chí đối với đô thị bền vững nhưng chưa đầy đủ, chưa được kiểm định bằng phân tích thực tế mà chỉ dừng lại ở mức độ đề xuất.
Trong Thông tư Liên tịch số 02/TTLT-BXD-TCCBCP, Hướng dẫn về phân loại đô thị và phân cấp quản lý đô thị, đã xây dựng hệ thống tiêu chí và tiêu chuẩn phân loại đô thị. Nhưng mục đích của thông tư không phải là để đánh giá mức độ
đô thị hoá nên hệ thống tiêu chí không đủ để đánh giá mức độ đô thị hoá đồng thời còn nhiều điểm chưa rò và chưa hợp lý.
Thông tư 02 được xây dựng bởi tập thể các chuyên gia có nhiều am hiểu về đô thị và đô thị hoá. Kế thừa việc đánh giá tầm quan trọng của các yếu tố đô thị để xác định tầm quan trọng của các tiêu chí khi đánh giá mức độ đô thị hoá là hoàn toàn có thể. Tuy nhiên, mức độ đô thị hoá của một đô thị và loại đô thị là hai nội dung khác nhau nhưng có một phần đồng nhất nhau. Vì vậy có thể có những đô thị cùng loại nhưng mức độ đô thị hoá khác nhau và ngược lại.
Vì thực tế nêu trên, trong luận án, tác giả đã đề xuất vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hoá với nội dung cơ bản là xây dựng hệ thống các tiêu chí cùng với các chỉ tiêu phản ánh quá trình đô thị hoá một cách hoàn chỉnh và áp dụng phân tích thực tế cho Hà Nội.
3. Mục đích, ý nghĩa và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án: Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về đô thị hoá trên thế giới và ở Việt Nam; Xây dựng hệ thống tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá mức độ đô thị hoá. Vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí để đánh giá mức độ đô thị hoá của Hà Nội. Kiến nghị các quan điểm, định hướng đô thị hoá cho Hà Nội và Việt Nam.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu
- Lần đầu tiên luận án xây dựng hệ thống tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá mức độ đô thị hoá góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc đánh giá hiện trạng và hoạch định chính sách đô thị hoá ở Việt Nam. Đồng thời góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phát triển đô thị và quản lý đô thị.
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho các cơ quan hoạch định chính sách liên quan đến quản lý đô thị trong cả nước nói chung và cho Hà Nội cũng như các thành phố khác.
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học về đô thị trong các trường đại học.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan có chọn lọc các vấn đề khoa học có liên quan đến việc đánh giá mức độ đô thị hoá, các phương pháp đánh giá mức độ đô thị hoá đã được sử dụng ở Việt Nam và các nước.
- Xây dựng hệ thống tiêu chí, chỉ tiêu và tiêu chuẩn đánh giá mức độ đô thị hoá ở Việt Nam .
- Đề xuất vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí trên cơ sở hệ thống tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá đã xây dựng để đánh giá mức độ đô thị hoá của Việt Nam và lấy Hà Nội làm ví dụ.
- Kiến nghị các quan điểm phát triển đô thị của Việt Nam và Hà Nội.
- Kiến nghị một số quan điểm và giải pháp phát triển đô thị ở Việt Nam và Hà Nội đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình đô thị hoá và vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí để đánh giá mức độ đô thị hoá của các đô thị. Trong một chừng mực nhất định, luận án nghiên cứu các vấn đề đô thị nói chung, quan hệ giữa đô thị hoá và phát triển kinh tế xã hội và các quan điểm phát triển đô thị. Luận án kiểm định việc áp dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí thông qua việc áp dụng cho Hà Nội, do đó quá trình đô thị hoá của Hà Nội cũng là đối tượng nghiên cứu của luận án.
Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án nghiên cứu khái quát các vấn đề lý luận chung về đô thị và đô thị hóa, đi sâu nghiên cứu các tiêu chí phản ánh mức độ đô thị hóa của các đô thị của Việt Nam, lấy thành phố Hà Nội để vận dụng nghiên cứu. Những số liệu được dùng để phân tích chủ yếu có chuỗi thời gian từ năm 1995 đến năm 2005 và cập nhật đến năm 2007 là thời kỳ được coi là có sự “bùng nổ về đô thị hóa”.
5. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu
Các quan điểm sử dụng trong nghiên cứu luận án :
Các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng sẽ được sử dụng để phân tích và hệ thống hoá các vấn đề lý luận về đô thị hoá và phát triển đô thị. Phân tích lý luận về đô thị và đô thị hóa nhằm làm rò bản chất, nội dung, hình thức của quá trình đô thị hóa, những nhân tố ảnh hưởng và quan hệ biện chứng giữa các nhân tố và quá trình đô thị hóa v.v… Việc giải quyết các vấn đề đô thị trước hết phải tìm ra những mâu thuẫn trong đô thị, nguyên nhân, bản chất, mối quan hệ của các yếu tố.
Các quan điểm cụ thể được vận dụng trong nghiên cứu luận án là :
Quan điểm tổng hợp: trên cơ sở nhìn nhận các vấn đề một cách tổng hợp để xác định các nội dung có liên quan đến quá trình đô thị hoá và xây dựng các định hướng và giải pháp.
Quan điểm hệ thống: Việc đánh giá mức độ đô thị hoá trong mối quan hệ tương tác trong hệ thống và các mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
Quan điểm động: Việc phân tích, đánh giá mức độ đô thị hoá trong quá trình biến động của chúng theo thời gian và không gian.
Quan điểm lịch sử: Đánh giá mức độ đô thị hoá ở những thời điểm nhất định và trong một không gian cụ thể của quá trình hình thành, kế thừa và phát triển.
Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu luận án :
Luận án sử dụng kết hợp các phương pháp theo phương châm gắn lý luận với thực tiễn, nhằm ứng dụng lý luận vào thực tiễn đồng thời bổ sung lý luận.
- Phương pháp duy vật biện chứng: nhằm phân tích quá trình đô thị hoá trong mối quan hệ tương tác với phát triển kinh tế xã hội, phân tích đô thị hoá toàn diện và theo một logic khoa học.
- Các phương pháp thống kê: Phương pháp phân loại, thu thập số liệu, mô tả và phân tích thống kê, phân tích định lượng kết hợp phân tích định tính, là cơ sở để làm rò bản chất đô thị về mặt kinh tế xã hội bằng số lượng; phương pháp phân tích mức độ ảnh hưởng các nhân tố, đánh giá vai trò ảnh hưởng từng nhân tố đến quá
trình đô thị hóa là cơ sở khoa học cho việc lựa chọn và xây dựng hệ thống chỉ tiêu, sắp xếp vị trí các chỉ tiêu trong hệ thống.
- Phương pháp so sánh đối chứng được sử dụng linh hoạt theo thời gian cho một đô thị nhằm phản ánh tốc độ đô thị hoá của đô thị.
- Phương pháp cho điểm được sử dụng để lượng hoá mức độ đạt được của các tiêu chí trong hệ thống tiêu chí phản ánh mức độ đô thị hoá, trên cơ sở đó xác định tổng hợp mức độ đô thị hoá của đô thị.
6. Những đóng góp của luận án
- Lần đầu tiên đề xuất hệ thống tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá mức độ đô thị hoá là cơ sở để đánh giá và so sánh mức độ đô thị hoá của các đô thị.
- Vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hóa bằng định lượng và định tính. Chứng minh tính khả thi của việc vận dụng phương pháp bằng việc áp dụng đánh giá mức độ đô thị hóa cho Hà Nội.
- Góp phần làm rò một số vấn đề chủ yếu về lý luận đô thị hoá và phát triển đô thị trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
- Đề xuất một số quan điểm phát triển đô thị nhằm góp phần đẩy mạnh quá trình đô thị hoá ở Việt Nam và Hà Nội. Đề xuất một số giải pháp để đẩy nhanh quá trình đô thị hoá của Hà Nội.
7. Kết cấu nội dung luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận án gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về đô thị, đô thị hoá và phương pháp đánh giá mức độ đô thị hoá.
Chương 2. Vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hoá ở Việt Nam, lấy Hà Nội (Trước ngày 1-8-2008) làm ví dụ.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp phát triển đô thị ở Việt Nam và Hà Nội đến năm 2020.
CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÔ THỊ, ĐÔ THỊ HOÁ VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÔ THỊ HOÁ
1.1.1. Khái niệm về đô thị, đô thị hoá và một số khái niệm khác có liên quan
1.1.1.1. Khái niệm về đô thị và vùng đô thị
1/ Đô thị
Các khái niệm về đô thị đều có tính tương đối xuất phát từ sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế xã hội, đặc điểm văn hoá, hệ thống dân cư. Mỗi nước trên thế giới có quy định riêng tuỳ theo yêu cầu và khả năng quản lý của mình. Nếu xem xét trên một phương diện chung nhất thì đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp. [37]
Trên quan điểm xã hội học, đô thị là một hình thức tồn tại của xã hội trong một phạm vi không gian cụ thể và là một hình thức cư trú của con người. “Sự tồn tại của đô thị tự bản thân nó khác hẳn vấn đề đơn giản là xây dựng nhiều nhà cửa độc lập với nhau, ở đây cái tổng hợp, cái chung nhất không phải là con số cộng của những bộ phận cấu thành. Đó là một cơ thể sống riêng biệt theo kiểu của nó”. [7]
Trên góc độ quản lý kinh tế - xã hội, đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong tỉnh hoặc trong huyện. [3]
Ở Việt Nam, đô thị được Nhà nước quy định là các thành phố, thị xã, thị trấn có số dân từ 4000 người trở lên, trong đó trên 65% lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp… [9] Hiện nay quan niệm đó được các nhà quản lý bổ sung thêm một tiêu chuẩn nữa là cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật của đô thị có
thể hoàn chỉnh, đồng bộ hoặc chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ nhưng phải có quy hoạch chung cho tương lai.
Từ các quan niệm trên đây, và trong điều kiện hiện nay, quan niệm về đô thị cần có sự đổi mới. Nên quan niệm chung về đô thị như sau: Đô thị là một không gian cư trú của con người, ở đó cư dân sống tập trung với mật độ cao, lao động chủ yếu làm việc trong khu vực phi nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, kinh tế, xã hội phát triển, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một lãnh thổ nhất định.
Quan niệm như vậy nhằm nhấn mạnh hai mặt là phát triển xã hội và phát triển kinh tế ở đô thị . Về mặt xã hội, đô thị là một hình thức cư trú, ở đó có mật độ dân cư cao, mức sống cao, tiện nghi đầy đủ hơn cùng với những thể chế luật lệ tiến bộ. Không gian đô thị bao gồm không gian kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật, cảnh quan môi trường, … Về mặt kinh tế, hoạt động sản xuất ở đô thị chủ yếu là công nghiệp và dịch vụ. Để có sự phát triển kinh tế, xã hội, đô thị phải có một cơ sở hạ tầng kỹ thuật tiên tiến. Nhờ có sự phát triển về kinh tế, xã hội, mà đô thị có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của vùng hoặc cả nước. Như vậy, khi nói tới đô thị cần đề cập đến các yếu tố cơ bản cấu thành đô thị như quy mô, mật độ dân số, sự phát triển kinh tế, xã hội, hình thức lao động và tính hiện đại của cơ sở hạ tầng, và vai trò của đô thị đối với vùng và cả nước.
2/ Vùng đô thị
Vùng đô thị là một không gian bao gồm nhiều đô thị có mối quan hệ tương tác với nhau, nương tựa, hỗ trợ, hợp tác để cùng phát triển. Thực chất vùng đô thị là một lãnh thổ với nhiều đô thị có sự liên kết với nhau nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế về tự nhiên, kinh tế, xã hội trong một thể thống nhất, từ đó tạo ra sự phát triển của mỗi đô thị trong tổng thể phát triển bền vững của toàn bộ hệ thống đô thị. Trong vùng đô thị luôn tồn tại một đô thị trung tâm, từ đô thị trung tâm các đô thị vệ tinh chịu ảnh hưởng với một mức độ nhất định.
Một trong những vấn đề cơ bản của phát triển vùng đô thị là việc xác định phạm vi lãnh thổ, số lượng đô thị và cơ chế phối hợp giữa các đô thị. Trong thực tế, không gian vùng đô thị được xác định trên cơ sở ảnh hưởng của đô thị trung