Về Công Nghiệp Hóa Hướng Về Xuất Khẩu


quan trong phát triển nên chính sách biệt lập đóng cửa là không thích hợp. Nó đã hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, hạn chế sự phát triển của ngoại thương và hậu quả cuối cùng là tăng trưởng kinh tế chậm.

Nhìn chung, những hạn chế trong thực hiện công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã đẩy số đông các nước đang phát triển vào tình trạng suy thoái và trì trệ về kinh tế. Trong khi ấy, sự thay đổi của tình hình kinh tế thế giới đã thúc đẩy các nước đang phát triển phải tìm kiếm chiến lược công nghiệp hoá mới để mở đường cho nền kinh tế phát triển.

1.1.2.2. Về công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu

Vào cuối thập kỷ 1960, đầu thập kỷ 1970, điều kiện quốc tế đã có những thay đổi sâu sắc. Quá trình phát triển phân công lao động quốc tế đã cuốn hút sự tham gia của hầu hết các nước với mức độ khác nhau. Để thực hiện công nghiệp hoá, các nước đang phát triển nhất thiết phải mở rộng quan hệ kinh tế ra thị trường ngoài nước. Vấn đề đặt ra với các nước đang phát triển là phải xây dựng một chiến lược công nghiệp hoá phù hợp có khả năng đem lại thành công trong phát triển. Chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu ra đời trong hoàn cảnh đó.

Tại Hội nghị cấp bộ trưởng lần thứ tư Uỷ ban kinh tế - xã hội châu Á - Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (ESCAP) họp cuối năm 1969, nhóm cố vấn nghiên cứu chiến lược phát triển cho các nước trong khu vực vào thập kỷ 1970 đã được thành lập và đã đưa ra quan điểm cơ bản cho một chiến lược mới “chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu”.

Chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đã được thực hiện ở nhiều nước trên các châu lục khác nhau. Thực tế trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược này, nhiều nước đã tập trung phát triển các ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô (công nghiệp khai khoáng, nông, lâm, ngư nghiệp) để xuất khẩu sang các nước tư bản phát triển và các ngành sử dụng nhiều lao động (dệt, may mặc, lắp ráp các sản phẩm cơ khí, điện, điện tử, cơ khí ...) cũng được chú ý.


Đó là những biện pháp để vừa tạo điều kiện phát triển kinh tế vừa góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội. Nhưng chính sự tập trung quá mức vào một số ngành dẫn đến tình trạng nền kinh tế lệ thuộc vào những ngành đó, dễ bị ảnh hưởng khi có những biến động về vốn đầu tư và thị trường tiêu thụ nước ngoài. Giai đoạn phát triển tiếp theo kế thừa những thành quả của giai đoạn ban đầu, chú trọng phát triển các ngành chế tạo, tỷ trọng sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thô giảm dần. Giai đoạn phát triển thứ ba gắn liền với quá trình “cất cánh” và “trưởng thành” của nền kinh tế. Các sản phẩm đã qua chế biến và các sản phẩm chứa đựng hàm lượng khoa học - công nghệ cao sẽ giữ vị trí trọng yếu đóng góp vào xuất khẩu và sự tăng trưởng của nền kinh tế. Thực tế, đã có nước thành công trong việc chuyển một số ngành sản xuất các sản phẩm thay thế nhập khẩu thành những ngành sản xuất sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Đến một trình độ nhất định, các sản phẩm do một số nước đang phát triển sản xuất ra đã tạo được thế cạnh tranh trực tiếp đối với các sản phẩm của các nước tư bản phát triển.

Trong từng giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, các nước đang phát triển đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 210 trang tài liệu này.

- Cải tổ cơ cấu nền kinh tế theo hướng mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, trọng tâm là ngoại thương. Cơ cấu kinh tế theo chiến lược mới này không nhất thiết phải hoàn chỉnh như cách quan niệm trước đây, mà dành ưu tiên cao cho các ngành được coi là mũi nhọn, có nhiều tiềm năng, mang lại thu nhập nhanh và có khả năng kéo nền kinh tế đi lên. Đó là các ngành nông nghiệp, công nghiệp sản xuất các sản phẩm có sử dụng nguyên liệu là tài nguyên thiên nhiên và chi phí lao động chiếm tỷ trọng lớn để xuất khẩu.

- Nhà nước tiến hành xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan, áp dụng các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách thuế, chính sách tỷ giá linh hoạt. Đồng thời kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển, giảm bớt tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước để nhằm nâng cao hiệu quả và giảm bớt gánh nặng chi tiêu

Vai trò của nhà nước trong công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của Malaixia - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - 4


ngân sách. Nhà nước thực hiện mở rộng tín dụng khuyến khích xuất khẩu, tăng chi tiêu ngân sách cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực v.v...

- Mở cửa đón nhận đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các nước đang phát triển đã ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài như đảm bảo tài sản, đảm bảo quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; ban hành chế độ thuế ưu đãi đối với các công ty nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển vốn và lợi nhuận; cải cách thủ tục hành chính v.v... Thông qua việc thực hiện các giải pháp thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài, các nước này đã khắc phục được sự thiếu hụt về vốn, nâng cao trình độ công nghệ, kỹ năng quản lý, thực hiện mở rộng hoạt động kinh tế ra thị trường thế giới.

- Xây dựng các KCX, KTMTD, đặc khu kinh tế với việc áp dụng thể chế hành chính, kinh tế - xã hội phù hợp với các thông lệ quốc tế; xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao v.v... Thực tế đây là các khu vực kinh tế có tính quốc tế trong một quốc gia có chủ quyền, một khu vực kinh tế hiện đại trong một quốc gia kém phát triển, một khu vực kinh tế mở trong một quốc gia đang chuyển sang kinh tế thị trường. Các khu vực này chính là nơi thu hút các nguồn vốn, công nghệ mới, phát triển tốt nhất các hoạt động kinh doanh xuất khẩu.

Trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ 20, một số nước và vùng lãnh thổ đã thành công trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, tiêu biểu là các “con rồng châu Á” (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo). Nền kinh tế các nước này có tốc độ tăng trưởng nhanh và khá ổn định; cơ cấu kinh tế chuyển dịch năng động; địa vị kinh tế được cải thiện rõ rệt trên thị trường thế giới. Nhờ thu nhập xuất khẩu tăng, khả năng nhập khẩu cũng tăng góp phần quan trọng vào việc đổi mới công nghệ kỹ thuật hiện đại - yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá. Từ đó tạo ra một năng lực công nghiệp mới không


những cho phép tăng sản xuất về mặt số lượng mà còn tăng chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động. Ngoài ra, chính sự phát triển của các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu còn mở ra một khả năng thu hút một lực lượng lao động ngày càng lớn, góp phần giải quyết những vấn đề xã hội.

Sự thành công trong quá trình thực hiện mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của một số nước cho thấy, một nước kém phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá đất nước bằng cách tận dụng tối ưu các nguồn lực bên ngoài, trước hết là vốn, công nghệ v.v... cùng với việc phát huy tối đa những khả năng và nguồn lực trong nước với định hướng phát triển các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu.

Mặc dù vậy, thực tế cũng có những nước lại không thành công khi thực hiện phát triển nền kinh tế theo mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Nguyên nhân là do sự áp dụng máy móc kinh nghiệm của nước ngoài, chưa đánh giá hết những điều kiện trong và ngoài nước khi tiến hành thực hiện chiến lược này. Một số nhà kinh tế cho rằng các nước theo đuổi chính sách đẩy mạnh xuất khẩu hoạt động tốt hơn các nước chủ yếu dựa vào chính sách thay thế nhập khẩu. Đồng thời, họ cũng đặt câu hỏi liệu các nước tiên tiến có để cho các ngành công nghiệp chế tạo đang đi xuống của họ bị thua trong cạnh tranh với hàng xuất khẩu của các nước công nghiệp hoá mới không? Hoặc liệu họ có bị sự cám dỗ đi đến đóng cửa đối với những hàng nhập khẩu như vậy bằng thuế quan bảo hộ hay định mức không? Hơn nữa, trong số các nước đang phát triển thì chỉ có một số nước có thể hy vọng nhận được những ưu đãi và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu cũng có những hạn chế:

- Mô hình này đã quá chú trọng tới định hướng xuất khẩu, tập trung ưu đãi để phát triển những ngành hướng xuất khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước. Chính vì vậy khi có những biến động của thị trường ngoài nước thì những ngành xuất khẩu của các quốc gia này ngay lập tức sẽ bị ảnh hưởng theo chiều hướng bất lợi. Đồng thời, sự phát triển nhanh của những ngành công nghiệp xuất khẩu


đã làm cho các ngành và lĩnh vực khác như tiền tệ - tài chính, dịch vụ v.v... phát triển không kịp gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới lĩnh vực xuất khẩu.

- Các định chế thương mại, tài chính, tiền tệ quốc tế đang trong quá trình hình thành. Vì vậy, dòng hàng hoá, dịch vụ, tài chính, tiền tệ quốc tế đang vận động chưa có một khuôn khổ pháp lý quốc tế phù hợp. Trong điều kiện các nước đang phát triển áp dụng mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu sẽ gặp rất nhiều khó khăn trên thương trường trước các đối thủ cạnh tranh lớn nhưng lại thiếu các khuôn khổ pháp lý quốc tế cần thiết bảo vệ nên các nước này sẽ dễ gặp những rủi ro và thiệt hại

- Sự phát triển nhanh chóng của hoạt động xuất khẩu làm cho thể chế kinh tế - xã hội đổi mới không kịp, dễ tạo ra các khe hở và gây ra nhiều mâu thuẫn mới trong nền kinh tế. Đó là nạn tham nhũng, trốn lậu thuế v.v...

Từ quá trình thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, trong xu thế toàn cầu hoá đang tiến triển mạnh mẽ hiện nay cho thấy, mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã bộc lộ một số hạn chế. Để khắc phục những khuyết tật của mô hình này, vấn đề đặt ra với các nước đang phát triển là cần tiếp tục tìm kiếm một mô hình công nghiệp hoá mới theo kịp với những biến động của tình hình trong nước và thế giới.

Trong những năm cuối của thế kỷ 20, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Đặc biệt cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997, đã thức tỉnh các nước đang phát triển phải điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế - kỹ thuật trong công nghiệp hoá.

Các nhà kinh tế thế giới đang luận bàn về một mô hình công nghiệp hoá mới đang được thực hiện ở một số nước đang phát triển. Đó là mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập hay còn gọi là mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp. Mô hình này được xây dựng trên cơ sở kết hợp các yếu tố của chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (coi trọng thị trường trong nước,


phát triển sản xuất các sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước) và các yếu tố của chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu (coi trọng thị trường nước ngoài trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh để phát triển mạnh mẽ các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu). Thực tế, đó là sự điều chỉnh có sự kết hợp của hai mô hình thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu, coi trọng cả thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, trong đó lấy thị trường nước ngoài là trọng tâm và coi ngoại thương là động lực thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế.

Mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập ra đời nhằm khắc phục những khuyết tật của mô hình công nghiệp hoá trước đó với việc khai thác, sử dụng tối đa những nguồn lực cả trong và ngoài nước để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Thực hiện mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập cũng là nhằm tận dụng được những lợi thế về sự luân chuyển một cách tự do của dòng vốn, công nghệ, hàng hoá và dịch vụ cho phép các nước đang phát triển có thể thu hút những nguồn lực bên ngoài để khắc phục những hạn chế về vốn, về trình độ công nghệ, về kỹ năng quản lý, về thị trường để nâng cao trình độ của nền kinh tế. Các nước đang phát triển thực hiện chiến lược này cũng nhằm từng bước tham gia vào tiến trình hội nhập quốc tế. Điều đó có nghĩa là các nước đang phát triển phải tham gia thoả thuận cùng định ra những định chế quốc tế và cùng cam kết thực hiện. Những định chế quốc tế này phải xuất phát từ lợi ích chung của các nước tham gia và đại diện cho lợi ích quốc tế, đồng thời nó chi phối những chính sách của các quốc gia, buộc các quốc gia phải đổi mới chính sách cho thích hợp với những định chế quốc tế. Thực hiện mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập còn cho phép các nước đang phát triển đối phó được những thách thức của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế do cạnh tranh khu vực và toàn cầu ngày càng gay gắt; nguy cơ tụt hậu; những rối loạn trong các quan hệ kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ.


Thực tế cho thấy, một nền kinh tế phát triển bền vững có nhiều khả năng đối phó được trước những thách thức của xu thế toàn cầu hoá. Điều đó đòi hỏi các nước thực hiện mô hình công nghiệp hoá này phải có những nỗ lực rất lớn để có thể tận dụng được những thời cơ một cách có lợi nhất, đối phó với những thách thức một cách có hiệu quả. Cho đến nay, mô hình này mới đang hình thành với những nội dung cơ bản sau:

- Xây dựng một cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng hội nhập quốc tế, tạo ra một cơ cấu công nghiệp có lựa chọn dựa trên những lợi thế so sánh có lợi nhất. Vì vậy, cùng với những biện pháp hướng mạnh về xuất khẩu, cần thực hiện một số biện pháp thay thế nhập khẩu cần thiết để vực dậy các ngành công nghiệp non trẻ của đất nước trước thực tế cạnh tranh quốc tế ngày càng diễn ra gay gắt, mà lợi thế lại thuộc về các nước phát triển.

Đặc trưng của cơ cấu công nghiệp theo hướng hội nhập quốc tế là tính linh hoạt và mềm dẻo, đó không thể là một cơ cấu đông cứng. Các cơ sở công nghiệp phải luôn tính tới tính hiệu quả, đó chính là phải rút ngắn thời hạn thu hồi vốn, luôn đổi mới quy trình công nghệ, đổi mới mặt hàng trước sức ép cạnh tranh của các công ty nước ngoài ngày càng mạnh cùng với xu thế toàn cầu hoá. Đồng thời phải tăng cường đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực v.v... Đặc điểm nổi bật của cơ cấu công nghiệp hội nhập quốc tế chính là tính chất mở, có khả năng tiếp nhận những nguồn lực của thế giới, bao gồm vốn, công nghệ, nhân lực, những giá trị văn hoá v.v... Một cơ cấu công nghiệp hội nhập quốc tế không chỉ có nghĩa phải có những ngành công nghiệp xuất khẩu sản phẩm ra thị trường thế giới, mà còn phải tạo dựng những ngành, lĩnh vực hấp thụ được thành tựu khoa học - công nghệ của thế giới. Đây là đặc trưng khác hẳn với cơ cấu công nghiệp chỉ hướng về xuất khẩu.

- Xây dựng một thể chế kinh tế - xã hội theo hướng hội nhập quốc tế. Trong thời gian tới, những định chế pháp lý của một thị trường toàn cầu sẽ dần được hình thành. Những định chế này sẽ bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như


thương mại, đầu tư, tiền tệ, tài chính, lao động, văn hoá v.v... Các quốc gia tiến hành công nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế không thể không đổi mới những thể chế kinh tế - xã hội của mình phù hợp với các định chế trên. Thể chế thị trường mở của mô hình công nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế sẽ có những đặc trưng thích hợp với những định chế khu vực và toàn cầu và do những định chế này quy định. Để hội nhập có hiệu quả, các nước cần tạo lập đồng bộ các loại thị trường, xây dựng hệ thống luật pháp phù hợp với thông lệ quốc tế. Đó là vấn đề cấp thiết đặt ra với nhiều nước đang phát triển hiện nay.

- Xây dựng một đội ngũ nhân lực có chất lượng tốt đạt tiêu chuẩn quốc tế và một nhà nước mạnh có thể tham gia phối hợp hoạch định ra các định chế quốc tế, hoạch định ra các chính sách quốc gia thích hợp với các định chế quốc tế. Nhân tố quyết định mức độ thành công của việc thực hiện mô hình công nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế là ở trình độ và năng lực nguồn nhân lực của mỗi quốc gia.

Nhìn chung, với các nước đang phát triển, việc lựa chọn mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập đang là vấn đề mới mẻ trong giai đoạn thử nghiệm và định hình. Những biến động của đời sống kinh tế quốc tế đòi hỏi mỗi nước phải có sự điều chỉnh các chính sách, giải pháp phù hợp nhằm phát huy tối đa lợi thế trong hội nhập, đồng thời khắc phục những tiêu cực thường xuyên phát sinh trong hội nhập. Đó là điều kiện không thể thiếu được nhằm đảm bảo cho sự bền vững trong phát triển.

Tóm lại, công nghiệp hoá là một quá trình tất yếu với các nước đang phát triển, nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kinh tế kém phát triển, phụ thuộc và tiến lên hiện đại. Từ thực tế công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển trong thời gian qua cho thấy, nó là một quá trình khó khăn phức tạp, bao hàm cả nội dung kinh tế - xã hội đồng thời còn chịu sự tác động của các nhân tố bên trong và bên ngoài. Sự tác động đó không chỉ tạo những điều kiện thuận lợi, mà còn cả những khó khăn. Những vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình công nghiệp

Xem tất cả 210 trang.

Ngày đăng: 02/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí