Vai trò của nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam - 5


cơ cấu kinh tế mở, hợp lý, hiệu quả, cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế.

- Hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại làm tăng thu nhập, đem lại cho người tiêu dùng nhiều sự lựa chọn hơn. Tự do hóa thương mại sẽ xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thúc đẩy tăng trưởng thương mại, do dó làm tăng thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân. Theo dự tính của WTO, thương mại tự do toàn cầu có thể làm tăng thu nhập của cả thế giới lên đến 510 tỷ USD.

Việc cắt giảm thuế quan cũng tác động đến thu nhập cá nhân, vì khi thuế quan được xóa bỏ, giá cả trong nước sẽ giảm xuống ngang với giá thế giới. Sự giảm giá này sẽ kích thích cầu, nhập khẩu sẽ tăng lên. Điều đó cho phép người dân tiêu dùng nhiều hơn với giá thấp hơn. Đồng thời người tiêu dùng có nhiều loại hàng hóa để lựa chọn và sử dụng những sản phầm phù hợp hơn với nhu cầu của mình.

b) Những tác động tiêu cực và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế vừa có những tác động tích cực vừa có những tác động tiêu cực và thách thức. Dưới đây phân tích một số tác động tiêu cực và thách thức chủ yếu về mặt kinh tế của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đặt các nước trước thách thức cạnh tranh gay gắt có tính chất quốc tế và đối với các nước đang phát triển đây là cuộc cạnh tranh không cân sức.

Hợp tác và cạnh tranh là hai mặt của nền kinh tế thị trường toàn cầu, trong đó hợp tác là xu thế chính, nhưng cạnh tranh cũng trở nên gay gắt hơn, trên bình diện rộng hơn. Cạnh tranh tuân theo qui luật mạnh được yếu thua và sẽ dẫn đến đào thải. Các ngành nghề, các doanh nghiệp hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh yếu ở bất kỳ nước nào cũng sẽ bị đào thải.

Trong cuộc cạnh tranh quốc tế, các nước đang phát triển ở thế bất lợi. Do trình độ kỹ thuật – công nghệ thấp cùng với sự yếu kém, lạc hậu trong quản lý, hàng hóa của các nước đang phát triển có chất lượng thấp hơn sản phẩm cùng loại của các nước phát triển. Hơn nữa nhiều loại nhu cầu ở các nước đang phát triển có thể được thỏa mãn bởi những hàng hóa có khả năng


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

thay thế và thuận lợi hơn được sản xuất ở các nước phát triển. Vì thế, khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được loại bỏ, hàng hóa của các nước có ưu thế hơn sẽ tràn qua các đường biên giới quốc gia, xâm nhập vào thị trường các nước đang phát triển. Do đó, đưa đến cạnh tranh gay gắt, nhưng không cân sức và làm nảy sinh sự phá sản, thất nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội vốn đã rất nan giải ở các nước đang phát triển.

- Tính dễ tổn thương của các nền kinh tê quốc gia. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, nền kinh tế của mỗi quốc gia thường chịu tác động mạnh bởi những chấn động kinh tế khu vực và thế giới. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, các nền kinh tế tùy thuộc lẫn nhau, những chấn động kinh tế, đặc biệt là chấn động tài chính-tiền tệ sẽ có tác động ngay lập tức đến các nền kinh tế khác. Những chấn động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu Á năm 1997 là một ví dụ, nó tác động đến gần như hầu hết các nước, kể cả những nước ở xa và ít có quan hệ với nền kinh tế châu Á. Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu Á đã cung cấp bằng chứng đáng sợ về tác động bất ổn của việc loại bỏ kiểm soát dòng vốn toàn cầu.

Vai trò của nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam - 5

Cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực cho vay thế chấp của Mỹ đã lẫn đến làn sóng bán tháo cổ phiếu và gây biến động trên thị trường tài chính toàn cầu vào tháng 8 năm 2007 và đã đưa đến sự suy thoái kinh tế toàn cầu.

Các nước đang phát triển còn gặp phải một khó khăn khác trong hội nhập kinh tế quốc tế, đó là việc kiểm soát các dòng vốn ngắn hạn. Đặc trưng của dòng vốn này là tính không ổn định cao, thường được ưu tiên đầu tư vào các công cụ tài chính có thể thanh toán dễ dàng. Nó chứa đựng mối nguy hiểm cho nước tiếp nhận đầu tư khi nó bị rút đi bất cứ lúc nào một cách ồ ạt bởi hiệu quả đầu tư thấp hoặc môi trường đầu tư bất ổn. Đây được coi là nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của các nền kinh tế Mỹ La Tinh ở thập niên 1990, sự đổ vỡ của kinh tế Achentina vào năm 2001, một nền kinh tế được cho là nền kinh tế tự do kiểu mẫu.

- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế làm trầm trọng thêm bất công xã hội trong từng nước và giữa các nước.

Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang chịu tác động lớn từ Mỹ và một số nước tư bản phát triển phương Tây. Với ưu thế


về kinh tế và quân sự của mình, Mỹ đang chi phối quá trình này nhằm phục vụ lợi ích cho mình. Vì thế, các mối lợi thu được từ toàn cầu hóa kinh tế được phân phối không đều. Mỹ và các cường quốc công nghiệp đang được hưởng lợi chủ yếu từ toàn cầu hóa kinh tế.Báo cáo thế giới về phát triển con người của UNDP công bố đã thống kê được hơn 80 nước có mức thu nhập tính theo đầu người thấp hơn cách đây 10 năm. Báo cáo này cũng cho biết là khoảng cách thu nhập giữa 20 % dân số thế giới có thu nhập thấp và 20 % dân số có thu nhập cao nhất đã gia tăng đáng kể: tỷ lệ này vào năm 1960 là 1 /30, đến năm 1990 đã tăng lên 1/60 và đến năm 1997 là 1/74 [20, tr 28-29]. Bất bình đẳng cũng tăng lên trong phạm vi từng nước, ở cả nước giàu lẫn nước nghèo. Theo báo cáo của UNDP bất bình đẳng về thu nhập đặc biệt tăng mạnh trong những năm gần đây.

Như vậy, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã không phân phối công bằng các cơ hội và lợi ích giữa các khu vực, quốc gia và giữa các nhóm dân cư trong mỗi nước. Mặc dù Liên hiệp quốc đã kiến nghị cần phân phối lại 0,7 % GDP của các nước giầu cho các nước nghèo, nhưng trên thực tế chỉ có khoảng tối đa 0,2 %GDP của các nước giàu tới các nước nghèo, trong khi đó đáng ra phải gấp 5 lần như vậy.

- Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đối với an ninh kinh tế quốc gia, đối với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và những tác động khác.

+ Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế làm gia tăng sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia ; đồng thời các quốc gia đều giành ưu tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế, vì thế, khả năng xung đột vũ trang giữa các quốc gia có thể giảm xuống.Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế tăng lên giữa các nước không phải lúc nào cũng dẫn đến sự giảm xung đột giữa các quốc gia khi lợi ích quốc gia sống còn như vấn đề lãnh thổ bị đe dọa.

+ Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những thách thức đối với vấn đề giữ gìn truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc vì nền văn hóa dân tộc của mỗi nước có thể bị chèn ép, lấn át bởi văn hóa nước ngoài.


1.1.2. Sự cần thiết của vai trò nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế

Vai trò của nhà nước đối với kinh tế : Nhà nước là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nó được sinh ra trên một cơ sở kinh tế nhất định ; đồng thời nhà nước tác động trở lại đối với cơ sở kinh tế, đối với sự phát triển kinh tế của xã hội. Nhưng trong các giai đoạn phát triển khác nhau, nhà nước có vai trò khác nhau đối với kinh tế.Trong giai đoạn CNTB cạnh tranh tự do, nhà nước còn chưa can thiệp vào kinh tế, lúc này nhà nước chỉ là người bảo vệ tài sản cho giai cấp tư sản và duy trì những điều kiện chung bên ngoài của sản xuất ; còn bản thân quá trình sản xuất TBCN thì do các quy luật nội tại của CNTB và của kinh tế thị trường quyết định. Nhưng đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, tính chất xã hội hóa sản xuất đạt đến trình độ cao, nhiều vấn đề kinh tế vượt khỏi tầm tay các nhà tư bản, làm cho nền kinh tế lâm vào trạng thái không ổn định. Vì thế, nhà nước dần dần can thiệp sâu vào kinh tế, nhà nước tham gia trực tiếp vào việc điều tiết đối với sản xuất và phân phối nhằm bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định., hiệu quả.

Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc, vượt qua biên giới các quốc gia, thúc đẩy phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất quốc tế ngày càng sâu sắc, tạo nên sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia, hình thành nền kinh tế thế giới như một hệ thống hữu cơ. Nền kinh tế thị trường toàn cầu ngày nay cũng cần được quản lý và điều tiết. Vì thế, mặc dù không có chính phủ toàn cầu, nhưng đã hình thành các thiết chế, các tổ chức kinh tế như IMF, WB, WTO...cùng những quy định “ luật chơi ” chung có tính chất quốc tế để điều tiết nền kinh tế toàn cầu. Song, cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu lần này cho thấy rõ tình trạng thiếu hụt, sự bất cập về cơ chế và năng lực quản trị phát triển của các thể chế kinh tế quốc tế hiện nay.

Như vậy, sự xã hội hóa sản xuất cao dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại diện cho toàn xã hội mà quản lý nền sản xuất xã hội. Ngày nay sự xã hội hóa sản xuất không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà đã có tính chất quốc tế, vì thế xuất hiện sự cần thiết phải điều chỉnh, quản lý những hoạt động kinh tế toàn cầu bởi những quy định, tổ chức có tính chất quốc tế như IMF, WB, WTO,...


Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia hình thành nên quan hệ kinh tế quốc tế của quốc gia đó với các quốc gia khác và các tổ chức kinh tế quốc tế, tức là hình thành, phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại của quốc gia đó. Với tính cách là một lĩnh vực kinh tế, quan hệ kinh tế quốc tế của một quốc gia cũng phải được điều tiết, quản lý. Như vậy, sự cần thiết của vai trò nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế bắt nguồn từ vai trò kinh tế của nhà nước nói chung trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, từ yêu cầu khách quan giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội do hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia đặt ra mà chỉ có nhà nước mới đủ quyền lực và năng lực thực hiện.

- Nhà nước là người duy nhất có quyền quyết định việc thiết lập và phát triển các quan hệ kinh tế của một quốc gia với các quốc gia khác cũng như với các tổ chức kinh tế quốc tế.

Nhà nước mới có đủ tư cách pháp lý để tiến hành đàm phán, ký kết các hiệp định về thương mại, đầu tư, tài chính, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,...các tổ chức, các chủ thể kinh tế khác như doanh nghiệp không có đủ tư cách pháp lý để đàm phán, ký kết những hiệp định như vậy. Chẳng hạn, sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Chính phủ Việt Nam đã tiến hành đàm phán, ký kết với các nước này nhiều hiệp định kinh tế –thương mại cũng như với các nước khác. Chỉ có Chính phủ Việt Nam mới đủ tư cách pháp lý ký kết các hiện định kinh tế và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế, các tổ chức khác, các chủ thể kinh tế khác của Việt Nam không có đủ tư cách pháp lý để giải quyết những vấn đề đó.

- Việc thực hiện các cam kết quốc tế của một quốc gia trách nhiệm trước hết thuộc về chính phủ của nước đó và chính phủ cũng mới có đủ quyền lực và khả năng tổ chức thực hiện được các cam kết đó.

Khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào một tổ chức kinh tế khu vực và thế giới thì một quốc gia phải thực hiện nghĩa vụ thành viên và các cam kết của mình. Việc thực hiện các cam kết quốc tế trách nhiệm trước hết thuộc về Chính phủ , bởi lẽ, chủ thể tham gia các thiết chế, các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới là chính phủ của một quốc gia, chứ không phải là một tổ chức nào đó hay doanh nghiệp của nước đó.


Để thực hiện các cam kết quốc tế, các cam kết với WTO, trước hết, nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế của nước mình phù hợp với các quy định, nguyên tắc của WTO và thông lệ quốc tế. Nhưng đây là một công việc rất khó khăn, phức tạp, nhất là đối với các nước đang phát triển và đang chuyển đổi nền kinh tế tham gia hội nhập như Trung Quốc, Việt Nam. Bởi lẽ các quy định của WTO rất rộng lớn và phức tạp, có gắn kết với nhiều học thuyết kinh tế quốc tế và án lệ thương mại quốc tế. Việc sửa đổi những văn bản pháp luật để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thuộc thẩm quyền và chức năng của cơ quan lập pháp của nhà nước, mà không một tổ chức nào có thể thay thế được. Thứ đến, nhà nước phải xây dựng lộ trình cụ thể thực hiện cam kết đối với từng lĩnh vực và tổ chức triển khai thực hiện như thực hiện lộ trình giảm thuế, lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ, nói chung là thực hiện tự do hóa kinh tế và mở cửa thị trường. Sau nữa, nhà nước còn phải triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến về hội nhập để tạo nên sự thống nhất về nhận thức và sự tham gia của xã hội vào quá trình này. Đặc biệt nhà nước phải tạo điều kiện nâng đỡ các doanh nghiệp-người đi tiên phong trong hội nhập kinh tế - phát triển có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh để xâm nhập, mở rộng thị trường. Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế không những đòi hỏi phải có vai trò của nhà nước với tính cách là chủ thể quan trọng nhất của quá trình hội nhập mà còn phải có một nhà nước năng lực và hiệu quả để giải quyết được những nhiệm vụ do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra.

- Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện các điều chỉnh, cải cách kinh tế theo hướng thị trường đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.

Kinh nghiệm của các nước cho thấy để hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, các nước đều chú trọng cải cách kinh tế theo hướng thị trường, mở cửa. Chẳng hạn, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Maliaxia đã quyết tâm theo đuổi chính sách tự do hóa, liên tục cải cách chính sách thương mại, thực hiện chính sách công nghiệp hướng mạnh về xuất khẩu, nhờ vậy những nước này đã có nước phát triển mạnh mẽ.


Đối với các nước đang chuyển đổi nền kinh tế như Việt Nam, Trung Quốc, cải cách kinh tế theo hướng thị trường là chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Đây là vấn đề hệ trọng đối với quốc gia. Sai lầm trong chính sách, bước đi và phương thức tiến hành có thể dẫn đến những hậu quả tai hại, thậm chí cả những đổ vỡ về kinh tế, xã hội. Vì thế cần xác định rõ đường lối, quan điểm, mục tiêu, bước đi của cải cách kinh tế và tổ chức thực hiện những cải cách trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Ngoài nhà nước không có một tổ chức nào có thể giải quyết được những vấn đề trên để đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế.

- Do yêu cầu bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc. Hội nhập kinh tế quốc tế không có mục đích tự thân mà nó chỉ là phương tiện phục vụ cho mục tiêu phát triển của một quốc gia. Vì thế, lợi ích quốc gia là ưu tiên hàng đầu mà nhà nước phải bảo vệ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phức tạp, có tính hai mặt, chứa đựng cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với tất cả các nước, trong đó các nước đang phát triển chịu nhiều thách thức hơn. Mặt khác, một số nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ muốn lợi dụng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế để áp đặt một trật tự thế giới mới có lợi cho Mỹ, thông qua toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế buộc các nước phải lệ thuộc vào mình, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước thông qua chiêu bài bảo vệ nhân quyền. Do đó, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phải xử lý những vấn đề liên quan đến độc lập, chủ quyền- một thuộc tính cố hữu không thể tách rời nhà nước. Để bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc, cần phải có một nhà nước năng lực, bản lĩnh, khôn khéo ; phải củng cố và nâng cao vai trò của nhà nước trong tiến trình hội nhập kinh tế. Trong các cuộc đàm phán song phương, đa phương về thương mại, đầu tư, tài chính, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,...các cam kết gia nhập một tổ chức kinh tế quốc tế phải bảo vệ được lợi ích chính đáng và tránh những điều bất lợi, gây tổn hại đến lợi ích quốc gia.


- Do yêu cầu giải quyêt những vấn đề xã hội nẩy sinh trong quá trình hội nhập kinh tế. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vừa có những tác động tích cực vừa có những tác động tiêu cực. Một trong những tác động tiêu cực đó là làm trầm trọng thêm bất công xã hội trong từng nước và giữa các nước. Để hạn chế tác động tiêu cực đó, nhà nước phải nỗ lực cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho những người có thu nhập thấp, cho những người nghèo. Nhà nước còn phải bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập. Vì thế, phải nâng cao vai trò của nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế.

1.2 NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.2.1 Những lý thuyết chủ yếu về vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế và xu hướng điều chỉnh chức năng của nhà nước trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

1.2.1.1.Những lý thuyết kinh tế chủ yếu về vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế.

Trong lịch sử tư tưởng kinh tế, đã có nhiều lý thuyết khác nhau về vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Nếu tính từ khi CNTB ra đời đến nay, thì ta thấy có những lý thuyết chính sau đây:

.Chủ nghĩa trọng thương (từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII) đánh giá cao vai trò của tiền tệ, coi tiền tệ là tài sản thật sự của một quốc gia và cho rằng để có tích lũy tiền tệ phải thông qua hoạt động thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương. Nó cũng cho rằng việc tích lũy tiền tệ chỉ có thể được thực hiện với sự giúp đỡ của nhà nước. Những người trọng thương đánh giá cao vai trò của nhà nước, họ cho rằng chỉ có dựa vào nhà nước mới phát triển được kinh tế. Họ đã nhận thấy vai trò chủ yếu của nhà nước trong việc hướng dẫn buôn bán. Sự can thiệp của nhà nước đã đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế thời bấy giờ. Chứng minh cho điều đó là chính sách của J.B. Colbert ở Pháp thế kỷ XVII. Để tăng tích lũy tiền vàng, ông áp dụng các biện pháp thúc đẩy công nghiệp phát triển nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, biến nước Pháp thành trung tâm cung cấp hàng công nghiệp cho thế giới.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 05/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí