3.2.2.1 Công tác kế toán 82
3.2.2.2 Vấn đề công bố thông tin 82
3.2.3 Đề xuất với cơ quan quản lý Nhà nước 82
3.2.3.1 Tạo môi trường cho hoạt động kinh doanh tín nhiệm phát triển 82
3.2.3.2 Thúc đẩy xây dựng các cơ quan xếp hạng tín nhiệm độc lập 82
3.2.3.3 Nâng cao vai trò và thông tin từ trung tâm tín dụng CIC 83
3.2.3.4 Xây dựng hệ thống dữ liệu để cung cấp thông tin doanh nghiệp nhanh chóng,
đầy đủ và chính xác 83
Tóm tắt chương 3 86
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hoạt động tín dụng là hoạt động mang tính truyền thống và đem lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Nhưng tất nhiên đi kèm với lợi nhuận cao là rủi ro lớn. Rủi ro này không những chỉ ảnh hưởng đến NH cấp tín dụng mà còn có thể ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nên kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Hiện nay, các NHTM Việt Nam đang phát triển đa dạng các sản phẩm tín dụng dành cho mọi đối tượng. Trong đó, các sản phẩm tín dụng dành cho doanh nghiệp ngành càng đa dạng và phong phú. Nó luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nợ của ngân hàng và cũng mang lại tỷ trọng thu nhập cao nhất cho ngân hàng. Song đây là mảng tín dụng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và khi rủi ro xảy ra thường có hậu quả rất lớn, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do đó khâu thẩm định, đánh giá xếp hạng tín dụng cho KH doanh nghiệp là một nhiệm vụ luôn luôn mang tính cấp thiết đối với hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng Quốc tế (VIB) nói riêng. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu,em thấy hệ thống XHTD nội bộ của ngân hàng Quốc tế còn bộc lộ một số hạn chế. Việc đề xuất một mô hình thống kê định lượng để hoàn thiện hơn hệ thống XHTD tại NH Quốc tế (NH mà đề tài nghiên cứu) là một vấn đề mang tính tất yếu và chiến lược. Chính bởi vậy, em đã lựa chọn đề tài “ Ứng dụng mô hình Logit nhằm nâng cao chất lượng xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Ngân hàng Quốc tế - Chi nhánh Hoàn Kiếm” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng không có nợ đủ tiêu chuẩn của các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng Quốc tế. Từ đó, ước lượng mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố lên xác suất KH có nợ đủ tiêu chuẩn là bao nhiêu bằng việc ứng dụng mô hình Binary Logistic ( Mô hình Logit).
Đánh giá hệ thống xếp hạng tín dụng của ngân hàng Quốc tế, đưa ra các mặt đã làm được, những mặt còn hạn chế từ đó đề xuất các kiến nghị để hoàn thiện hơn nữa hệ thống XHTD của ngân hàng.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
i. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là các hệ thống XHTD doanh nghiệp. Đối tượng khảo sát chính là những KH doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng Quốc tế - Chi nhánh Hoàn Kiếm.
ii. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng thống kê mô tả mô hình Logit để phân tích dữ liệu. Dữ liệu được lấy từ tháng 01/2010 đến tháng 04/2012 về thông tin của 36 KH có quan hệ tín dụng với ngân hàng Quốc tế - Chi nhánh Hoàn Kiếm.
Do hạn chế trong cơ sở dữ liệu, nên đề tài chỉ dừng lại ở mức đánh giá XHTD với những tiêu chí cơ bản nhất, và kết quả của đánh giá còn ở mức kiêm tốn, mức ý nghĩa chưa cao. Tuy nhiên, mô hình vẫn cố gắng để đưa ra những thông số có ý nghĩa nhất trong những kết quả có được từ mô hình xây dựng.
Ngoài phương pháp trên, đề tài còn kết hợp phương pháp duy vật biện chứng, vận dụng các nguyên tắc khách quan, toàn diện và thống nhất giữa lịch sử và logic, sử dụng các phương pháp đi từ cụ thể đến trừu tượng… ngoài ra đề tài còn sử dụng các tài liệu, các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước có liên quan.
4. Ý nghĩa của đề tài:
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần thêm cơ sở khoa học cho các tổ chức tài chính và các cá nhân liên quan, đặc biệt là ngân hàng Quốc tế (VIB) – Chi nhánh Hoàn Kiếm trong quá trình hoạt động kinh doanh và quản trị rủi ro của mình. Kết quả nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo cho các chủ thể tham gia vào quá trình XHTD, cũng như cho những nghiên cứu liên quan đến XHTD doanh nghiệp.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần kết luận và các danh mục, phụ lục kèm theo, kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về xếp hạng tín dụng
Chương II: Thực trạng hoạt động xếp hạng tín dụng tại ngân hàng Quốc tế (VIB) – Chi nhánh Hoàn Kiếm.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Ngân hàng Quốc tế (VIB).
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG
Mục tiêu nghiên cứu của chương này nhằm tiếp cận một số cơ sở lý luận, các yếu tố liên quan và phương pháp tiếp cận lĩnh vực xếp hạng tín dụng nói chung, XHTD doanh nghiệp nói riêng. Từ đó, hình thành cơ sở và phương pháp luận để tiếp tục nghiên cứu trong các chương tiếp theo của đề tài.
1.1. Xếp hạng tín dụng với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm xếp hạng tín dụng
Bắt đầu từ thập kỷ 70, dự báo rủi ro tài chính đã trở thành một hướng phát triển mạnh mẽ của mô hình hóa xác suất thống kê. Khi nhắc tới rủi ro tài chính gần như ngay lập tức người ta liên tưởng tới hoạt động quản lý danh mục đầu tư, định giá quyền chọn (option) và các công cụ tài chính khác. Công thức định giá quyền chọn (option) Black-Scholes, bài viết về định giá trái phiếu công ty của Merton, ... là những khái niệm quen thuộc. Và xếp hạng tín dụng cũng là một trong những hoạt động nhằm quản lý rủi ro tài chính mà các tổ chức tài chính trên thế giới, thậm chí cả quốc gia quan tâm và ứng dụng từ rất sớm.
Xếp hạng tín dụng (credit ratings) là thuật ngữ do Moody đưa ra năm 1909 trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán đường sắt”, khi tiến hành nghiên cứu, phân tích và công bố bảng xếp hạng tín dụng đầu tiên cho 1500 trái phiếu của 250 công ty theo một hệ thống ký hiệu gồm 3 chữ cái A, B, C được xếp lần lượt từ (AAA) đến (C). Hiện nay, những ký hiệu này trở thành chuẩn mực quốc tế. Ở Việt Nam thuật ngữ xếp hạng tín dụng đang tồn tại nhiều tên gọi như: xếp hạng tín nhiệm, xếp hạng doanh nghiệp, định dạng tín dụng, xếp hạng KH, phân loại tín dụng... Trong đề tài này em dùng thuật ngữ “xếp hạng tín dụng” (XHTD). Cho đến nay, khó có thể đưa ra một khái niệm rõ ràng về xếp hạng tín dụng, tùy theo góc độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Một số định nghĩa về XHTD của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước:
Theo Moody’s:
Xếp hạng tín nhiệm là những ý kiến đánh giá (opinions) về chất lượng tín dụng của các nghĩa vụ tài chính cá nhân hoặc khả năng trả nợ nói chung của tổ chức phát hành. Việc xếp hạng này dựa trên những phân tích tín dụng cơ bản và biểu hiện thông qua hệ thống ký hiệu Aaa-C.
Theo Theo Standards & Poor:
Xếp hạng tín dụng là những ý kiến đánh giá hiện tại (forward-looking opinions) về rủi ro tín dụng (credit risk), chất lượng tín dụng, khả năng và thiện ý của chủ thể đi vay trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính một cách đầy đủ và đúng hạn (in full and on time).
Theo Fich Ratings:
Xếp hạng tín dụng là các quan điểm đánh giá dựa trên các tiêu chí, dữ liệu có sẵn (established criteria) và các phương pháp mà Fich đang đánh giá và cập nhật liên tục. Vì thế, XHTD là kết quả công việc tập thể của Fich, không phải là thành quả của một cá nhân, hay nhóm cá nhân và Ficth chịu trách nhiệm về việc xếp hạng của mình.
Theo định nghĩa của công ty chứng khoán Merrill Lynch:
XHTD là đánh giá hiện thời của công ty XHTD về chất lượng tín dụng của một nhà phát hành chứng khoán nợ, về một khoản nợ nhất định. Nói khác đi, đó là cách đánh giá hiện thời về chất lượng tín dụng được xem xét trong hoàn cảnh hướng về tương lai, phản ánh sự sẵn sàng và khả năng nhà phát hành có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn. Trong kết quả XHTN chứa đựng ý kiến chủ quan của chuyên gia XHTD.
Theo nghiên cứu của đại học Virginia trong cuốn Overview of Credit Rating định nghĩa:
XHTD là một quan điểm đánh giá tổng thể khả năng trả nợ hoặc của chủ thể phát hành hoặc của một sản phẩm cụ thể được phát hành bởi chủ thể phát hành. Việc xếp hạng được dựa trên bất cứ nhân tố rủi ro nào mà tổ chức định giá cho rằng nó có liên quan tới.
Chấm điểm tín dụng là một phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng của một yêu cầu xin vay. Sử dụng các dữ liệu lịch sử và công cụ thống kê, chấm điểm tín dụng cố gắng để cô lập các tác động khác nhau của các đặc điểm khác nhau của người xin vay dựa trên sự không trả nợ đúng hạn hoặc phá sản. (Loretta J. Mester – What’s the Point of Credit scoring? 2004)
Theo tiến sĩ Trần Đắc Sinh (Giám đốc Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh) trong cuốn “ Định mức tín nhiệm tại Việt Nam” thì:
XHTD là việc đưa ra các nhận định hiện tại về mức độ tín nhiệm của nhà phát hành đối với một trách nhiệm tài chính nào đó, hoặc là đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau. Các loại đầu tư có thể dưới dạng chứng khoán như là trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi và giấy nhận nợ, hoặc các công cụ cho vay khác như vay và gửi tiền tại ngân hàng, các thương phiếu.
Ta thấy rằng, các định nghĩa của Moody’s, S&P, Fitch, Merrill Lynch, viện nghiên cứu Nomura, cũng như một số chuyên gia Việt Nam về XHTD đều có điểm chung khi cho rằng XHTD là các quan điểm đánh giá hiện tại (opinions) về chất lượng tín dụng (creditworthiness), khả năng trả nợ của các chủ thể vay nợ một cách đầy đủ và đúng thời hạn.
Theo Agribank: Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng KH là một quy trình đánh giá xác suất một KH tín dụng không thực hiện được các nghĩa vụ tài chính của mình với NH cho vay như không trả được nợ gốc và lãi vay khi đến hạn hoặc vi phạm các điều kiện tín dụng khác.
Theo Vietcombank: Hệ thống chấm điểm tín dụng là một phương pháp lượng hóa mức độ rủi ro tín dụng của KH thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm. Các chỉ tiêu và thang điểm được áp dụng khác nhau đối với các loại KH khác nhau.
Theo ngân hàng VIB (Quy định số 203/2009/QĐ-VIB ngày 02/02/2009) đưa ra khái niệm XHTD: Xếp hạng tín dụng KH là việc xác định hệ số tín nhiệm về khả năng trả nợ và thực hiện các cam kết tài chính đối với các khoản vay tín dụng, khoản phải trả người cung ứng, các trách nhiệm thuế theo luật định, thông qua việc phân tích, đánh giá, cho điểm và tổng hợp điểm xếp hạng từ các tiêu thức thuộc hạng mục rủi ro tài chính, rủi ro kinh doanh, rủi ro quản lý và rủi ro uy tín.
Tóm lại, từ các khái niệm về XHTD của các tổ chức và nhà nghiên cứu đã nêu ở trên, em đi đến một khái niệm chung về xếp hạng tín dụng, trên quan điểm ngân hàng, đó là:
Xếp hạng tín dụng: là các quan điểm đánh giá hiện tại về khả năng trả nợ hiện tại và trong tương lai của KH khi thực hiện quan hệ tín dụng với ngân hàng nhằm sắp xếp, phân loại KH thành các nhóm KH khác nhau.
Hệ thống xếp hạng tín dụng: là toàn bộ nhân tố tham gia vào quá trình đánh giá khả năng trả nợ của KH. Hệ thống XHTD tiếp cận đến tất cả các yếu tố có liên
quan đến rủi ro tín dụng, các NHTM không sử dụng kết quả XHTD nhằm thể hiện giá trị người đi vay mà đơn thuần là đưa ra ý kiến hiện tại dựa trên các nhân tổ rủi ro, từ đó có chính sách tín dụng và giới hạn cho vay phù hợp.
được điều chính theo dự kiến mức độ rủi ro tín dụng có liên quan đến KH đi vay và tất cả các khoản vay của KH đó.
Ta cần phân biệt xếp hạng tín dụng và chấm điểm tín dụng:
Bảng 1.1 Bảng so sánh XHTD với chấm điểm tín dụng
Chấm điểm tín dụng: là một phương pháp phân tích thống kê nhằm lượng hóa rủi ro tín dụng của KH tín dụng thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm. Một sự xếp hạng cao của KH đi vay không phải là cơ sở chắc chắn trong việc thu hồi đầy đủ của một KH đi vay, mà chỉ là cơ sở để đưa ra quyết định đúng đắn về tín dụng đã
Chấm điểm tín dụng | ||
Là các quan điểm nhằm sắp xếp, phân loại một đối tượng vào các nhóm KH trên cơ sở đo lường rủi ro tín dụng. | Là một phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng của một khoản vay, bằng việc sử dụng các dữ liệu lịch sử và kỹ thuật thống kê để đưa ra một thang điểm cho các đặc điểm của đối tượng chấm điểm. | |
Dựa trên chủ yếu là phán đoán, kinh nghiệm của người xếp hạng, đồng thời có mang tính chủ quan. Nó không sử dụng công thức toán học để đưa ra kết quả | Dựa trên kỹ thuật thống kê, nó là sử dụng công thức toán học để đưa ra một kết quả là điểm số tín dụng dựa trên các dữ liệu lịch sử của đối tượng xếp hạng. | |
Kết quả xếp hạng tín dụng là hạng tín dụng, được mã hóa bằng các ký hiệu, biểu tượng. Xếp hạng căn cứ vào điểm tín dụng được chấm của KH. | Kết quả chấm điểm tín dụng là điểm số tín dụng, là các con số cụ thể. Nó là căn cứ để xếp hạng tín dụng |
Có thể bạn quan tâm!
- Ứng dụng mô hình Logit nhằm nâng cao chất lượng xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng quốc tế chi nhánh Hoàn Kiếm - 1
- Xác Định Trọng Số (Hay Tham Số) Cho Mỗi Dấu Hiệu
- Yếu Tố Về Các Chỉ Tiêu Tài Chính Của Doanh Nghiệp
- Một Số Kinh Nghiệm Và Nghiên Cứu Về Mô Hình Xếp Hạng Tín Dụng Doanh Nghiệp
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Trong phạm vi bài khóa luận này, em tập trung phân tích và nghiên cứu hệ thống XHTD dành cho nhóm KH doanh nghiệp.
1.1.2. Đối tượng của Xếp hạng tín dụng
1.1.2.1. Xếp hạng tín dụng người đi vay:
XHTD người đi vay chủ yếu dự báo nguy cơ vỡ nợ theo ba cấp độ cơ bản là nguy hiểm, cảnh báo và an toàn dựa trên xác suất không trả được nợ (PD - Probability of Default). Cơ sở của xác suất này là dữ liệu về các khoản nợ quá khứ
trước đó của KH gồm: nợ đã trả, khoản nợ không thu hồi được. Dữ liệu phân theo ba nhóm: Nhóm dữ liệu tài chính liên quan tới hệ số tài chính của KH cũng như cá đánh giá của tổ chức xếp hạng; Nhóm dữ liệu phi tài chính liên quan tới trình độ quản lý, khả năng nghiên cứu và phát triển thị trường, sản phẩm mới, các dự liệu liên quan tới tăng trưởng ngành; Và nhóm dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan tới hện tượng báo hiệu khả năng không trả được nợ như: tình hình số dư tiền gửi, hạn mức thấu chi. Các nhóm dự liệu này được đưa vào mô hình từ đó tính ra xác suất không trả được nợ của KH. Đó có thể là mô hình tuyến tính, mô hình probit… và thường được xây dựng bởi các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp. Người đi vay gồm cá nhân và doanh nghiệp.
Xếp hạng tín dụng cá nhân:
Đây là hình thức xếp hạng được áp dụng đối với các KH cá nhân tham gia vào hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Việc XHTD cá nhân được thực hiện dựa trên những yếu tố đặc điểm của mỗi cá nhân (như tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, số con cái...), yếu tố tài chính của cá nhân như thu nhập, tiết kiệm hằng tháng, số lượng và loại tài sản đảm bảo mà cá nhân đó đang sở hữu, những khoản thanh toán chậm hoặc nợ quá hạn…) và các yếu tố về hành vi cá nhân (như lịch sử vay – trả nợ, số lần trễ hẹn thanh toán, tính trung thực và hợp tác...).Tất cả những thông tin đó đều được thu thập và tổng hợp trong các hồ sơ XHTD về cá nhân đó.
Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp:
Đây là hình thức tập trung vào đối tượng xếp hạng là các doanh nghiệp. Việc XHTD doanh nghiệp được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau, nhưng về cơ bản vẫn dựa trên các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp để đánh giá. Thông thường, các tổ chức tài chính, NHTM, công ty chứng khoán, các tổ chức nghiên cứu và ngay cả một vài cơ quan của NHNN (như CIC) cũng xây dựng hệ thống XHTD doanh nghiêp cho mình.
1.1.2.2. Xếp hạng tín dụng quốc gia
Loại hình XHTD này đánh giá mức độ tin cậy của một quốc gia, để từ đó có thể so sánh môi trường đầu tư giữa các quốc gia. Quốc gia nào càng được XHTD cao thì càng nhận được sự tín nhiệm của các nhà đầu tư nước ngoài nên sẽ thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư. Việc XHTD các quốc gia dựa trên các chỉ số phát triển