Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Theo Hướng Bền Vững


- “Bảo tồn, phát huy có hiệu quả các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” trên trang web của SVH-TT&DL tỉnh Đắk Lắk.

- “DLST đang mất dần chỗ đứng” của Đình Đối trên báo Đắk Lắk, tháng 9 năm 2013.

- “Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển DL tỉnh Đắk Lắk theo hướng bền vững”, Luận văn thạc sĩ Địa lí của Mai Thị Thùy Dung, Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, năm 2006.

Ngoài ra còn rất nhiều bài khảo cứu, tạp chí viết về lĩnh vực DLST của tỉnh Đắk Lắk.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến các vấn đề liên quan đến phát triển DL nói chung của tỉnh Đắk Lắk hoặc chỉ thiên về giới thiệu các thắng cảnh đẹp ở địa phương,… chứ chưa đề cập sâu đến vấn đề phát triển DLST trên cơ sở lý luận về LHDL này. Do vậy, tác giả mạnh dạn chọn đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu tiềm năng và thực trạng phát triển DLST ở tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở lí luận chuyên ngành và tiếp cận dưới góc độ Địa lí học để từ đó đề xuất định hướng cùng các giải pháp thực hiện nhằm phát triển hơn nữa DLST ở địa phương theo hướng bền vững.

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương sau:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về DLST theo hướng bền vững. Chương 2: Tiềm năng và hiện trạng phát triển DLST ở tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3: Định hướng và các giải pháp phát triển DLST ở tỉnh Đắk Lắk theo hướng bền vững.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG

Tiềm năng và định hướng phát triển du lịch sinh thái tỉnh Đắk Lắk theo hướng bền vững - 3


1.1. Cơ sở lí luận về phát triển DL sinh thái theo hướng bền vững

1.1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Du lịch

Cho đến nay đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về DL.

Theo Từ điển bách khoa quốc tế về DL do Viện Hàn lâm khoa học quốc tế về DL xuất bản:

“DL là tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện một dạng hành trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách DL,… DL là cuộc hành trình mà một bên là người khởi hành với mục đích đã được chọn trước và một bên là những công cụ làm thoả mãn các nhu cầu của họ” [8].

Tại Hội nghị Liên hiệp quốc tại Roma - Italia (1963), các chuyên gia của Tổ chức DL Thế giới (WTO) cho rằng: “DL là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ” [20].

Theo I.I Pirôgionic (1985): “DL là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa” [20].

Theo Luật DL Việt Nam (2005), thì: “DL là các hoạt động có liên quan

đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp


ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.

Mặc dù có sự khác nhau nhưng nhìn chung, các định nghĩa về DL đều cơ bản thống nhất rằng: DL là một hoạt động của dân cư trong một thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất, tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức - văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và xã hội.

Như vậy, DL là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động DL vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, dịch vụ, lại có đặc điểm của ngành văn hoá - xã hội [18].

1.1.1.2. Sản phẩm du lịch

Cho đến nay đã có rất nhiều định nghĩa về sản phẩm du lịch.

“SPDL là các dịch vụ, hàng hoá cung cấp cho du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó” [15].

Theo Luật DL Việt Nam (2005), “SPDL là tập hợp các dịch vụ cần thiết

để thoả mãn nhu cầu của khách DL trong chuyến đi DL”.

Như vậy, SPDL là sự kết hợp hàng hoá và dịch vụ trên cơ sở khai thác hợp lí TNDL nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cho du khách trong hoạt động DL.

SPDL gồm cả những yếu tố hữu hình và những yếu tố vô hình. Xét theo quá trình tiêu dùng của khách DL trên chuyến hành trình DL thì có thể tổng hợp các thành phần của SPDL theo các nhóm cơ bản, gồm: Dịch vụ vận chuyển; Dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống; Dịch vụ tham quan, giải trí; Hàng hoá tiêu dùng và đồ lưu niệm; Các dịch vụ khác phục vụ khách DL.


1.1.1.3. Tổ chức lãnh thổ du lịch

Tổ chức lãnh thổ DL được hiểu là một hệ thống liên kết không gian của các đối tượng DL và các cơ sở phục vụ có liên quan dựa trên việc sử dụng tối ưu các nguồn TNDL (tự nhiên, nhân văn), kết cấu hạ tầng và các nhân tố khác nhằm đạt hiệu quả (kinh tế, xã hội, môi trường) cao nhất [internet].

1.1.1.4. Du lịch bền vững

Theo định nghĩa của Tổ chức DL thế giới – WTO đưa ra tại “Hội nghị về Môi trường và Phát triển” của Liên hợp quốc (Rio de Janeiro, 1992):

“DL bền vững là việc phát triển các hoạt động DL nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách DL và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động DL trong tương lai”

Theo Uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển (World committee on Enviroment and Development 1996):

“DL bền vững là việc đáp ứng những nhu cầu hiện tại của du khách và vùng DL mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ tương lai”.

DL bền vững đòi hỏi phải quản lí tất cả các dạng tài nguyên theo một cách nào đó để chúng ta có thể đáp ứng những nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mĩ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản, ĐDSH và các hệ đảm bảo sự sống [9].

1.1.1.5. Du lịch sinh thái và các loại hình DLST

Định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về DLST lần đầu tiên được Hector Ceballos-Lascurain đưa ra năm 1987: “DLST là DL đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi, với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hóa được khám phá” [11].


Theo Boo, 1990 và theo L.Hens,1998: “Chỉ có DL tự nhiên được quản lí bền vững, hỗ trợ cho sự bảo tồn và được giáo dục về môi trường mới được coi là DLST và DLST được coi là đồng nghĩa với DL tự nhiên đích thực” [9].

Theo Hiệp hội DLST Quốc tế: “DLST là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương” [11].

Tại Hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về DLST (tháng 9 năm 1999), các nhà khoa học đã đưa ra định nghĩa về DLST ở Việt Nam như sau:

“DLST là LHDL dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của CĐĐP” [5].

Tuy có nhiều định nghĩa về DLST nhưng hầu hết đều cho rằng DLST là DL dựa vào thiên nhiên (phát triển dựa vào những giá trị hấp dẫn của tự nhiên và văn hoá bản địa) và có các đặc điểm sau đây:

- Ít tác động tiêu cực đến khu thiên nhiên;

- Có giáo dục môi trường;

- Có tiếp xúc với CĐĐP nhưng không tác động tiêu cực mà giúp đỡ họ phát huy bản sắc văn hoá và ngành nghề truyền thống;

- Ít nhất là một phần lợi nhuận từ DLST được dùng cho bảo tồn khu thiên nhiên và để phát triển CĐĐP.

Các loại hình DLST:

Các loại hình DLST là các LHDL dựa vào thiên nhiên mà trong hoạt động của những LHDL này có gắn với việc thực hiện các nguyên tắc của DLST, bao gồm việc nâng cao nhận thức để du khách có trách nhiệm với việc bảo tồn các giá trị tự nhiên và văn hóa cộng đồng, tạo việc làm và lợi ích cho người dân địa phương. Các dạng của DLST như: DL nghỉ dưỡng, DL tham quan, DL mạo hiểm, DL thể thao, DL vui chơi giải trí, DL thăm các thắng cảnh,…[11].

1.1.1.6. Tài nguyên du lịch sinh thái


TNDLST là các thành phần và các thể tổng hợp tự nhiên, các giá trị văn hoá bản địa gắn với một HST cụ thể được khai thác, sử dụng để tạo ra các SPDLST, phục vụ cho mục đích phát triển DL nói chung, DLST nói riêng [11]. Mức độ khai thác TNDLST phụ thuộc vào: Khả năng nghiên cứu, phát hiện và đánh giá các tiềm năng tài nguyên vốn còn tiềm ẩn; Yêu cầu phát triển các sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách DLST; Trình độ tổ chức, quản lí đối với việc khai thác TNDLST, đặc biệt ở những nơi có các HST nhạy cảm; Khả năng tiếp cận, để khai thác các tiềm năng tài nguyên.

1.1.1.7. Du lịch sinh thái bền vững

DLST bền vững được hiểu là việc phát triển các hoạt động DL nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách DL và người dân bản địa trong khi đó vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên và phát triển DL trong tương lai. DLST bền vững đưa ra kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội và thẩm mỹ của con người, mặt khác vẫn duy trì được sự toàn vẹn về mặt xã hội, sự đa dạng về sinh học, sự phát triển của các HST và các hệ thống hỗ trợ cho con người.

1.1.2. Một số vấn đề về cơ sở lí luận phát triển DLST theo hướng bền vững

1.1.2.1. Các nguyên tắc của DLST

- Có hoạt động giáo dục và diễn giải nhằm hiểu biết về môi trường, qua

đó tạo ý thức tham gia vào các nỗ lực bảo tồn.

Du khách khi dời khỏi nơi mình đến tham gia sẽ phải có được hiểu biết cao hơn về các giá trị của môi trường tự nhiên, về những đặc điểm sinh thái khu vực và văn hoá bản địa. Từ đó, thái độ cư xử của du khách sẽ thay đổi: nỗ lực, tích cực hơn trong hoạt động bảo tồn và phát triển những giá trị về tự nhiên, sinh thái và văn hoá khu vực.

- Bảo vệ môi trường và duy trì HST:


Với nguyên tắc này, mọi hoạt động DL phải được quản lí chặt chẽ để giảm thiểu tác động tới môi trường, đồng thời một phần thu nhập từ hoạt động DLST sẽ được đầu tư để thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường và duy trì sự phát triển các HST.

- Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá cộng đồng:

Các giá trị văn hoá bản địa là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời các giá trị tự nhiên, môi trường của HST ở một khu vực cụ thể nên cần bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá của CĐĐP.

- Tạo cơ hội có việc làm và mang lại lợi ích cho CĐĐP:

DLST cũng dành một phần đáng kể lợi nhuận từ hoạt động của mình để đóng góp nhằm cải thiện môi trường sống của CĐĐP. Ngoài ra, DLST luôn hướng tới việc huy động tối đa sự tham gia của người dân địa phương. Thông qua đó tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người dân, làm cho cuộc sống của họ ít bị phụ thuộc hơn vào khai thác tự nhiên, đồng thời họ sẽ nhận thấy lợi ích của việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển DLST. Đặc biệt, chính CĐĐP sẽ là người chủ thực sự của tài nguyên môi trường tự nhiên, những người bảo vệ trung thành các giá trị tự nhiên và văn hoá bản địa của nơi diễn ra các hoạt động DLST [11].

1.1.2.2. Các yêu cầu để phát triển DLST

- Sự tồn tại của các HST tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao nói riêng và tính ĐDSH cao nói chung:

Đa dạng sinh thái là sự đa dạng về các điều kiện địa lí, khí hậu tự nhiên và động, thực vật. Đa dạng sinh thái bao gồm sinh thái tự nhiên, sinh thái động vật, sinh thái thực vật, sinh thái nông nghiệp, sinh thái khí hậu và sinh thái nhân văn. Đa dạng sinh thái là bộ phận và là một dạng thứ cấp của ĐDSH, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống. Đó là các HST và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật.


DLST là một LHDL dựa vào thiên nhiên (còn được gọi tắt là DL thiên nhiên), chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có các HST điển hình với tính đa dạng sinh thái cao nói riêng và tính ĐDSH cao nói chung như ở các KBTTN và VQG.

- Có tính giáo dục, nâng cao hiểu biết cho khách DL và có người điều hành có nguyên tắc:

Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao hiểu biết cho khách DL, người hướng dẫn viên ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá CĐĐP.

Các nhà điều hành DLST phải có được sự cộng tác với các nhà quản lí các KBTTN và CĐĐP nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị tự nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người địa phương với khách DL.

- DLST cần được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “ sức chứa ”:

Đây là yêu cầu nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt

động DLST đến tự nhiên và môi trường.

Dưới góc độ vật lí: sức chứa là số lượng tối đa du khách mà khu vực đó có thể tiếp nhận.

Dưới góc độ sinh học: sức chứa là lượng khách tối đa mà nếu lớn hơn sẽ vượt quá khả năng tiếp nhận của của môi trường.

Dưới góc độ tâm lí: sức chứa là giới hạn lượng khách mà nếu vượt quá thì bản thân du khách sẽ bắt đầu cảm thấy khó chịu vì sự “đông đúc” và hoạt động của họ bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của các du khách khác.

Dưới góc độ xã hội: sức chứa là giới hạn về lượng khách mà tại đó bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của hoạt động DL đến đời sống văn hoá - xã hội, KT-XH của khu vực. Cuộc sống bình thường của CĐĐP có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập.

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 21/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí