phân tích, đối chiếu các tài liệu liên quan đến du lịch tỉnh Bình Dương để rút ra những chỉ số có tính định lượng, từ đó xác định những sản phẩm có tính chủ lực, đề ra những chiến lược phát triển có hiệu quả.
6.2.2 Phương pháp khảo sát điều tra thực địa
Mỗi đối tượng, sự vật trong du lịch đều gắn liền với một không gian nhất định. Vì vậy để quá trình nghiên cứu có hiệu quả cần tiến hành những cuộc khảo sát ngoài thực địa. Trong đề tài này, phương pháp được sử dụng để thu thập bổ sung tư liệu về tài nguyên du lịch của vùng, hiện trạng khai thác tài nguyên… Phương pháp này đặc biệt có vai trò quan trọng trong nghiên cứu các vấn đến kinh tế-xã hội có liên quan đến các hoạt động phát triển du lịch. Ngoài ra, phương pháp này còn được sử dụng để xác định tình trạng môi trường cũng như định lượng các chỉ tiêu hiện trạng môi trường.
6.2.3 Phương pháp bản đồ - GIS
Phương pháp bản đồ là phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu địa lí bởi mọi nghiên cứu trong địa lí đều mở đầu bằng bản đồ và kết thúc cũng bằng bản đồ. Vì vậy bản đồ có ý nghĩa to lớn trong việc góp phần giải quyết các kết quả nghiên cứu cũng như sự phân bố các đối tượng một cách khoa học và trực quan. Đối với đề tài này, phương pháp bản đồ được sử dụng qua hai bước:
- Nghiên cứu bản đồ có sẵn: Dựa trên các bản đồ thu thập được, xác định phạm vi nghiên cứu một cách tổng quát, nghiên cứu về các điểm du lịch tỉnh Bình Dương.
- Xây dựng các bản đồ: dựa trên kết quả của việc phân tích tài liệu, số liệu… xây dựng các bản đồ: hành chính, tài nguyên du lịch, hiện trạng và định hướng khai thác du lịch của tỉnh Bình Dương.
6.2.4 Phương pháp toán thống kê
Hoạt động du lịch liên quan rất nhiều tới việc thống kê các số liệu về khách, số lượng tài nguyên, doanh thu và nhiều chỉ số khác. Bằng những
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng và chiến lược phát triển du lịch tỉnh Bình Dương giai đoạn 2011-2020 - 1
- Thực trạng và chiến lược phát triển du lịch tỉnh Bình Dương giai đoạn 2011-2020 - 2
- Cơ Sở Hạ Tầng Và Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Du Lịch.
- Khái Niệm Về Sản Phẩm Du Lịch.
- Thực trạng và chiến lược phát triển du lịch tỉnh Bình Dương giai đoạn 2011-2020 - 6
Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.
phép phân tích thống kê toán học cho phép nhà nghiên cứu rút ra những quy luật vận động của sự việc. Vì vậy là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu về mối quan hệ chặt chẽ giữa mặt định tính và định lượng của các hiện tượng, quá trình biến động, phát triển trong hoạt động du lịch.
Trên cơ sở thống kê, tính toán sự tăng trưởng số lượng khách, doanh thu, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch từ đó thấy được sự biến đổi hoạt động du lịch qua các mốc thời gian và tiến hành dự báo để đưa ra các giải pháp phát triển du lịch của tỉnh Bình Dương.
7. Những đóng góp của luận văn
- Đánh giá tiềm năng tài nguyên du lịch của tỉnh Bình Dương.
-Phân tích thực trạng du lịch của tỉnh Bình Dương, từ đó tìm hiểu được thuận lợi và hạn chế của hoạt động du lịch làm cơ sở cho định hướng phát triển du lịch của tỉnh trong tương lai.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, cùng tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được bố cục làm 3 chương.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2005 – 2010.
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2011-2020
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm về du lịch
1.1.1. Các định nghĩa về du lịch.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về du lịch.
1.1.1.1. Theo I.I.Pirôgionic, 1985 thì: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa”.
1.1.1.2.Theo “Pháp lệnh du lịch” do chủ tịch nước ta kí vào ngày 20/02/1999, du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định (Điểm 1, điều 10, trang 8).
1.1.2. Bản chất du lịch.
1.1.2.1. Nhìn từ góc độ nhu cầu của du khách.
Du lịch là một sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế-xã hội của loài người đến một giai đoạn phát triển nhất định. Chỉ trong hoàn cảnh kinh tế thị trường phát triển, sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng thời gian rỗi do tiến bộ của khoa học – công nghệ, phương tiện giao thông và thông tin ngày càng phát triển, làm phát sinh nhu cầu nghỉ ngơi, tham quan du lịch của con người. Bản chất đích thực của du lịch là du ngoạn để thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần có tính văn hóa cao.
1.1.2.2. Xét từ góc độ các quốc sách phát triển du lịch.
Dựa trên nền tảng của tài nguyên du lịch để hoạch định chiến lược phát triển du lịch, định hướng các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. lựa chọn các sản phẩm du lịch độc đáo và đặc trưng từ nguồn nguyên liệu trên,
đồng thời xác định phương hướng quy hoạch xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật và cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch tương ứng.
1.1.2.3. Xét từ góc độ sản phẩm du lịch.
Sản phẩm đặc trưng của du lịch là các chương trình du lịch, nội dung chủ yếu của nó là sự liên kết những di tích lịch sử, di tích văn hóa và cảnh quan thiên nhiên nổi tiếng cùng với cơ sở vật chất – kỹ thuật như cơ sở lưu trú, ăn uống, vận chuyển.
1.1.2.4. Xét từ góc độ thị trường du lịch.
Mục đích chủ yếu của các nhà tiếp thị du lịch là tìm kiếm thị trường du lịch, tìm kiếm nhu cầu của du khách để “mua chương trình du lịch”.
1.2. Chức năng của du lịch
Du lịch có những chức năng nhất định. Có thể xếp các chức năng ấy thành bốn nhóm : xã hội, kinh tế, sinh thái và chính trị.
1.2.1.Chức năng xã hội.
Thể hiện vai trò trong việc giữ gìn, hồi phục sức khỏe và tăng cường sức sống cho nhân dân. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Các công trình nghiên cứu về sinh học khẳng định rằng nhờ chế độ nghỉ ngơi và du lịch tối ưu, bệnh tật của dân cư trung bình giảm 30%, bệnh đường hô hấp giảm 40%, bệnh tim mạch giảm 50%, bệnh thần kinh giảm 30%, bệnh đường tiêu hóa giảm 20% (Crivôsép, Dorin, 1981). Ngoài ra, thông qua hoạt động du lịch, con người có điều kiện tiếp xúc với những thành tựu phong phú và lâu đời của các dân tộc, từ đó tăng thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như lòng yêu lao động, tình bạn… Điều đó quyết định sự phát triển cân đối về nhân cách của mỗi cá nhân trong toàn xã hội.
1.2.2. Chức năng kinh tế .
Có liên quan mật thiết với vai trò của con người như là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Hoạt động sản xuất là cơ sở tồn tại của mọi xã hội. Việc nghỉ ngơi, du lịch một cách tích cực và được tổ chức một cách hợp lý sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp. Một mặt, nó góp phần vào việc hồi phục sức khỏe cũng như khả năng lao động và mặt khác đảm bảo tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động với hiệu quả kinh tế rõ rệt. Thông qua hoạt động nghỉ ngơi, du lịch, tỷ lệ ốm đau trong khi làm việc giảm đi, tỷ lệ tử vong ở độ tuổi lao động hạ thấp và rút ngắn thời gian chữa bệnh, giảm số lần khám bệnh tại các bệnh viện. Ở các nước kinh tế phát triển, nguồn lao động gia tăng rất chậm. Vì thế, sức khỏe và khả năng lao động trở thành nhân tố quan trọng để đẩy mạnh nền sản xuất xã hội và nâng cao hiệu quả của nó.
Chức năng kinh tế của du lịch còn thể hiện ở một khía cạnh khác, đó là dịch vụ du lịch, một ngành kinh tế độc đáo, ảnh hưởng đến cả cơ cấu ngành và cơ cấu lao động của nhiều ngành kinh tế. Hơn nữa, nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí của con người được thỏa mãn thông qua thị trường hàng hóa và dịch vụ du lịch, trong đó nổi lên ưu thế của dịch vụ giao thông. Chính vì vậy, dịch vụ du lịch là cơ sở quan trọng kích thích sự phát triển kinh tế, là nguồn thu ngoại tệ lớn của nhiều nước.
1.2.3. Chức năng sinh thái.
Thể hiện trong việc tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi trường tự nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và các hoạt động của con người. Để đáp ứng nhu cầu du lịch, trong cơ cấu sử dụng đất đai nói chung phải dành riêng những lãnh thổ nhất định có môi trường tự nhiên ít thay đổi, xây dựng các công viên trong thành phố, thi hành các biện pháp bảo vệ nguồn nước và bầu
khí quyển nhằm tạo nên môi trường sống thích hợp. Dưới ảnh hưởng của các nhu cầu nghỉ ngơi, tham quan đã hình thành một mạng lưới các nhà nghỉ, các đơn vị du lịch. Tiềm năng tự nhiên đối với du lịch của lãnh thổ góp phần nâng cao hiệu quả sự tác động qua lại của con người với môi trường tự nhiên trong điều kiện công nghiệp hóa, đô thị hóa… phát triển mạnh mẽ. Chúng giúp con người thêm yêu quí và có ý thức bảo vệ thiên nhiên.
Mặt khác, việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những vùng nhất định lại đòi hỏi quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch một cách hợp lí.
Nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch của đông đảo quần chúng đòi hỏi phải có các vùng lãnh thổ được bảo vệ - các công viên quấc gia. Từ đó hàng loạt các công viên quốc gia đã xuất hiện để vừa bảo vệ các cảnh quan thiên nhiên có giá trị, vừa tổ chức các hoạt động giải trí du lịch.
Việc tìm hiệu các điểm du lịch và môi trường thiên nhiên bao quanh chúng có ý nghĩa không nhỏ đối với khách du lịch. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, hình thành quan niệm và thói quen bảo vệ tự nhiên, góp phần giáo dục cho khách du lịch về mặt sinh thái học.
Giữa xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một mặt xã hội cần đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác phải bảo vệ môi trường tự nhiên khỏi tác động phá hoại của dòng khách du lịch và của việc xây dựng cơ sở vật chất phục vụ du lịch. Du lịch – bảo vệ môi trường là những hoạt động gần gũi và liên quan với nhau.
1.2.4. Chức năng chính trị của du lịch.
Thể hiện ở vai trò to lớn của nó như một nhân tố củng cố hòa bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc tế làm con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau. Mỗi năm hoạt động du lịch với các chủ đề khác, như « Du lịch là giấy
thụng hành của hũa bỡnh ằ (năm 1967), ô Du lịch khụng chỉ là quyền lợi, mà cũn là trỏch nhiệm mỗi người ằ (năm 1983)… kờu gọi hàng triệu người quý trọng lịch sử, văn húa và truyền thống của cỏc quốc gia, giỏo dục lũng mến khỏch và trỏch nhiệm chủ nhà đối với khỏch du lịch, tạo nờn sự hiểu biết và tỡnh hữu nghị giữa cỏc dõn tộc.
1.3. Khái niệm về khách du lịch
1.3.1. Định nghĩa
Khách thăm viếng (Visitor) là một người đi tới một nơi (khác với nơi họ thường trú) với một lí do nào đó ( ngoại trừ lí do đến để hành nghề và lĩnh lương từ nơi đó. Định nghĩa này có thể được áp dụng cho khách Quốc tế (International Visitor) và du khách trong nước (Domestic Visitor).
Khách thăm viếng được phân chia thành hai loại:
+ Khách du lịch (Tourist).
Là khách thăm viếng, lưu trú tại một quốc gia hoặc một vùng khác với nơi ở thường xuyên trên 24 giờ và nghỉ qua đêm tại đó với các mục đích như nghỉ dưỡng, tham quan, thăm viếng gia đình, tham gia hội nghị, tôn giáo, thể thao.
+ Khách tham quan (Excursionist).
Còn gọi là khách thăm viếng 1 ngày (Day Visitor).
Là loại du khách thăm viếng lưu lại ở một nơi nào đó dưới 24 giờ và không lưu trú qua đêm.
1.3.2. Phân loại du khách
1.3.2.1. Phân loại theo phạm vi lãnh thổ.
Du khách Quốc tế (International Tourist).
Ở Việt Nam, theo điều 20 chương IV pháp lệnh du lịch, những người được thống kê là du khách quốc tế phải có các đặc trưng cơ bản sau đây :
* Là người nước ngoài hoặc cư dân Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch.
* Là công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi ra nước ngoài du lịch.
Mục đích chuyến đi của họ là tham quan, thăm thân nhân, tham dự hội nghị, khảo sát thị trường, đi công tác, chữa bệnh, thể thao, hành hương, nghỉ ngơi.
Du khách nội địa (Domestic Tourist).
Là công dân của một nước đi du lịch (dưới bất kỳ hình thức nào) trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó.
1.3.2.2. Phân loại theo loại hình du lịch.
Du khách du lịch sinh thái.
Được chia làm ba loại cụ thể :
* Khách du lịch sinh thái cảm giác mạnh.
Thành phần đa số là thanh niên đi du lịch các nhân hoặc theo nhóm nhỏ, tổ chức độc lập, ăn uống có tính địa phương, cơ sở lưu trú đơn giản, thích thể thao và du lịch mạo hiểm.
* Khách du lịch sinh thái an nhàn.
Du khách có lứa tuổi trung niên và cao niên, đi du lịch theo nhóm, ở khách sạn hạng sang, ăn uống ở nhà hàng sang trọng, ưa thích du lịch thiên nhiên và săn bắn.
* Khách du lịch sinh thái đặc biệt.
Bao gồm những du khách có lứa tuổi từ trẻ đến già, đi du lịch cá nhân, di tour đặc biệt, thích di chuyển (lưu cư), thích tự nấu ăn và thu hoạch kiến thức khoa học.
Du khách du lịch văn hóa.
Được phân chia làm hai loại :
* Du khách du lịch văn hóa đại trà, thuộc mọi lứa tuổi, thuộc mọi thành phần du khách.
* Du khách du lịch văn hóa chuyên đề.