Năm 1985, Trung ương hội liên hiệp phụ nữ đã triển khai phong trào giáo dục “Ba triệu bà mẹ nuôi con khỏe, dạy con ngoan” trong đó có nội dung GDSKSS ở tuổi dạy thì. Hình thức chủ yếu được sử dụng là nói chuyện, diễn giảng. Hiệu quả mới chỉ dừng lại ở tính chất phong trào chứ chưa thể có chất lượng sâu sắc được.
Phải chờ tới năm 1998, được sự tài trợ của quỹ dân số liên hiệp quốc (NFPA), cùng với sự giúp đỡ của kĩ thuật của UNESCO khu vực, do Bộ giáo dục và đào tạo đã giao cho Viện khoa học giáo dục Việt Nam thực hiện đề án VIE/98/P09 với sự tham gia của nhiều giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, chương trình thử nghiệm tập trung chủ yếu vào hai chủ điểm về tâm lí giáo dục và sinh học. Lần đầu tiên trong nhà trường phổ thông ở nước ta học sinh được học một cách có hệ thống về “những điều bí ẩn” của chính mình và mối quan hệ với người khác giới.
Ở nước ta trong giai đoạn từ 1989 đến 1992 các dự án GDDS đã bắt đầu được thử nghiệm. Giai đoạn từ 1994 đến 1998 bước đầu đã thể chế hóa GDDS trong nhà trường. Lần đầu tiên GDDS được đưa vào chương trình tích hợp GDDS với 5 chủ đề cơ bản: Nhân khẩu học, môi trường, gia đình, giới, dinh dưỡng. Các nội dung SKSS đã được chính thức lồng ghép vào nội dung một số môn học từ bậc tiểu học đến trung học và khẳng định rằng trong giai đoạn này trọng tâm của công tác GDDS phải là GDSKSS cho VTN. Tháng 10 năm 1996 hội thảo vì SKSSVTN đã nhấn mạnh đầu tư giải quyết vấn đề SKSSVTN là một yêu cầu quan trọng trong vấn đề phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn này nội dung GDDS quá thiên về dân số phát triển, chưa chú trọng tới SKSS như một mục tiêu ưu tiên quốc gia. Với sự ra đời của chương trình mới về giáo dục phổ thông cho giai đoạn sau 2000, các dự án GDDS giai đoạn mới được xây dựng. Mục tiêu GDDS trong giai đoạn này ở các trường phổ thông gồm: Xây dựng chương trình tích hợp GDDS mới phù hợp với trương trình giao dục phổ thông sau năm
2000 trên tinh thần nhấn mạnh tới SKSSVTN; xây dựng các tài liệu hướng dẫn giảng dạy, tài liệu tham khảo và các tài liệu trực quan; tập huấn giáo viên… song chúng ta vẫn chưa xây dựng được chương trình GDDS và SKSS cho THCS mặc dù các mục tiêu cho cấp học này đã được xác định.
Ủy ban phòng chống AIDS đã tổ chức nhiều hoạt động truyền thông, hoạt động can thiệp tại cộng đồng, tổ chức nghiên cứu, khảo sát thức trạng tình hình… nhằm bảo vệ VTN, nâng cao hiểu biết và kỹ năng dự phòng của VTN trước sự tấn công của đại dịch HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội. Thông qua các hoạt động đó cũng góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDSKSS cho VTN.
Ủy ban Dân số gia đình và Trẻ em cũng rất quan tâm đến việc GDSKSS cho VTN, trong chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 nêu rõ: “Tạo sự chuyển đổi hành vi bền vững về dân số, SKSS, KHHGĐ trên cơ sở cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin với nội dung và hình thức phù hợp với từng vùng, từng khu vực và từng nhóm đối tượng. Chú trọng hình thức tư vấn, đối thoại, vận động trực tiếp các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nam giới, thanh niên và những người chưa thành niên”.
Năm 2004, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em triển khai đề án “Mô hình cung cấp thông tin và dịch vụ SKSS/ KHHGĐ cho VTN và thanh niên” tại 10 tỉnh thành phố. Năm 2006 mở rộng ra 28 tỉnh thành phố. Mục tiêu chính của đề án nhằm nâng cao nhận thức về SKSS/ KHHGĐ, bao gồm các vấn đề liên quan về giới, giới tính, tình dục an toàn, BLTQĐTD, HIV/AIDS góp phần làm giảm các hành vi gây tác hại đến SKSSVTN.
Ngoài ra trong những năm gần đây, có thể kể đến nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề SKSS như:
- Dự án VIE/97/P13 của Bộ giáo dục - đào tạo đã sản xuất tài liệu: Phương pháp giảng dạy các chủ đề nhạy cảm về “SKSS”( 2000); và bộ tài liệu tự học dành cho giáo viên “GDSKSSVTN”(2001).
- Nguyễn Thế Hùng (2005): “Biện pháp bồi dưỡng năng lực GDSKSS VTN đối với các bậc cha mẹ”
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên cho học sinh huyện giao thủy - tỉnh Nam Định - 1
- Chiến Lược Quốc Gia Về Skss Và Skss Vtn Ở Việt Nam
- Thực Trạng Nhận Thức Của Học Sinh Lớp 9 Huyện Giao Thủy Về Một Số Nội Dung Cơ Bản Của Skss
- Nhận Thức Của Hs Lớp 9 Huyện Giao Thủy Về Tình Yêu, Tình Dục
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
- Nguyễn Ngọc Thái (2006): “Quản lý GDSKSS cho VTN thông qua mô hình giáo dục đồng đẳng tại tỉnh Quảng Nam”
- Nguyễn Thị Hải Lý (2008): “Ảnh hưởng của giáo dục nhà trường tới nhận thức của học sinh THPT về SKSS”
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề GDSKSS VTN cho học sinh lớp 9
1.2.1. Một số khái niện cơ bản
1.2.1.1. Vị thành niên
Trong cuộc đời của mỗi con người (cả nam và nữ) tuổi dậy thì được coi là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất về thể chất cũng như quá trình tích lũy kiến thức, kinh nghiệm xã hội, định hình nhân cách, khả năng hòa nhập cộng đồng.Giai đoạn này được thừa nhận là giai đoạn chuyển tiếp giữa trẻ con và người lớn, giữa tuổi ấu thơ và tuổi trưởng thành “VTN là một giai đoạn trong quá trình phát triển của con người với đặc điểm lơn nhất là sự tăng trưởng nhanh chóng để đạt tới sự trưởng thành về cơ thể, sự tích lũy kiến thức, kinh nghiệm xã hội, định hình nhân cách để có thể nhận lãnh trách nhiệm xã hội”.
Thuật ngữ Adolescent (VTN) được đưa vào năm 1904 theo đề xuất của nhà tâm lý học G.Stanlay Hal, dùng để chỉ quan niệm đồng nghĩa với tuổi đang lớn hoặc tuổi đang trưởng thành. Theo từ điển Tiếng Việt(NXB KHXH – HN, 1997) thì “VTN là những người chưa đến tuổi trưởng thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình”. Trong các văn bản hiện hành của Nhà nước ta như bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động có dùng thuật ngữ “người chưa thành niên” và có quy định rõ hơn về độ tuổi và mức độ mà người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm đối với từng hành động của mình. Theo tổ chức Y tế thế giới (WTO), VTN là những người trong độ tuổi từ 10 đến 19 tuổi.
Tuổi VTN được chia thành 3 nhóm tuổi:
- VTN sớm từ 10 đến 14 tuổi
- VTN trung bình từ 15 đến 17 tuổi
- VTN muộn từ 18 đến 19 tuổi
Theo ông Phạm Song - Chủ tịch Hội KHHGĐ Việt Nam đã khẳng định, không phải là vấn đề phân loại mà là xác định đúng đối tượng để tác động thích hợp. Theo ông, quá trình dậy thì của tuổi VTN được chia làm 3 thời kỳ:
- Thời kỳ đầu từ 10 đến 13 tuổi
- Thời kỳ giữa từ 14 đến 16 tuổi
- Thời kỳ cuối từ 17 đến 21 tuổi
Ở mỗi nước khác nhau căn cứ vào những điều kiện của mình mà trong luật hôn nhân và gia đình quy định và chia tuổi VTN cũng khác nhau ở mỗi nước. Còn ở Việt Nam hiện nay, tuổi VTN theo quy định của Đoàn thanh niên là từ 15 đến 28 tuổi. Theo Vụ bảo vệ sức khỏe bà mẹ và KHHGĐ thuộc Bộ Y tế thì tuổi VTN được chia thành 2 nhóm tuổi như sau:
- Nhóm 1 từ 10 – 14 tuổi
- Nhóm 2 từ 15 – 19 tuổi
Do mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi là học sinh THCS (lớp 9) nên tôi nghiên cứu nhóm tuổi từ 14 – 15 tuổi, thay thế đối tượng nghiên cứu bằng thuật ngữ VTN.
1.2.1.2. Sức khỏe sinh sản
Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển năm 1994 tại Cairô (ICPD) đã định nghĩa: “SKSS là trạng thái thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên quan tới hoạt động và chức năng của bộ máy sinh sản, chứ không chỉ đơn thuần là không có bệnh tật hoặc tàn phế trong bộ máy đó. Điều này hàm ý, mọi người, kể cả nam và nữ đều có quyền nhận được thông tin và tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các
biện pháp kế hoạch hóa gia đình an toàn, hiệu quả, dễ dàng và thích hợp tùy theo sự lựa chọn của họ đảm bảo cho phụ nữ trải qua thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo cho các cặp vợ chồng những điều kiện tốt nhất để có những đứa con khỏe mạnh”.
Cũng trong chương trình hành động của hội nghị đã nêu rõ: “SKSS là trạng thái sung mãn hoàn hảo về thể chất, tinh thần, xã hội và không chỉ là không có bệnh tật hay không bị tàn phế về tất cả những gì liên quan tới hệ thống, chức phận và quá trình sinh sản. Như thế, SKSS có nghĩa là mọi người có thể có cuộc sống tình dục an toàn, hài lòng, họ có khả năng sinh sản, tự do quyết định có sinh con hay không, sinh con khi nào và sinh bao nhiêu con. Ngầm hiểu trong điều cuối là quyền của người đàn ông và đàn bà có thông tin, có thể tiếp cận được các biện pháp KHHGĐ an toàn, có hiệu quả, có khả năng chi trả, có thể chấp nhận được, do họ lựa chọn để điều hóa sinh sản nếu như không trái pháp luật; quyền được tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc sức khỏe thích hợp, giúp họ dễ dàng trải qua thai nghén và sinh sản một cách an toàn, cung cấp cho họ những cơ may để họ co được những đứa con khỏe mạnh. Phù hợp với định nghĩa nói trên, chăm sóc SKSS và hạnh phúc về sinh sản, bằng cách đề phòng và giải quyết những vấn đề về SKSS. Nó cũng bao gồm cả sức khỏe tình dục, mà mục đích của nó là tăng cường cuộc sống và mối quan hệ, tư vấn và những chăm sóc liên quan đến SKSS và các BLTQĐTD”.
Nội dung SKSS:
- Làm mẹ an toàn, tức là đảm bảo sức khỏe cho bà mẹ, trẻ em trước và sau khi sinh.
- KHHGĐ nhằm đảm bảo quyền lợi của các cặp vợ chồng trong việc lựa chọn và sử dụng biện pháp tránh thai, quyền sinh con theo ý muốn, phù hợp với các nguyên tắc về phát triển kinh tế - xã hội.
- Giảm tỉ lệ nạo phá thai ở tất cả các lứa tuổi sinh đẻ.
- Giảm các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản ở phụ nữ.
- Phòng chống nguy cơ mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, đặc biệt là HIV/AIDS.
- Giáo dục giới tính rộng rãi cho thanh thiếu niên.
- Điều trị và phòng chống các bệnh lien quan đến vô sinh.
- Điều trị và phát hiện sớm các bệnh ung thư vú và đường sinh dục.
- Chăm sóc SKSS VTN.
- Thông tin giáo dục truyền thông về SKSS nhằm hướng dẫn thay đổi nhận thức và hành vi của cộng đồng.
Theo Chiến lược chăm sóc SKSS Việt Nam giai đoạn từ năm 2001 đến 2010 thì SKSS bao gồm 7 vấn đề cần được ưu tiên đó là:
- Quyền sinh sản.
- KHHGĐ, giảm phá thai và phá thai an toàn.
- Làm mẹ an toàn và chăm sóc trẻ sơ sinh.
- BLTQĐTD, kể cả HIV/AIDS và vô sinh.
- Phòng và chữa ung thư đường sinh sản.
- Sức khỏe sinh sản vị thành niên.
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực chăm SKSS.
Điều này chứng tỏ rằng, chúng ta không chỉ quan tâm đến KHHGĐ mà còn phải giải quyết nhiều vấn đề hơn nhằm bảo vệ và chăm sóc SKSS của nhân dân.
1.2.1.3. Sức khỏe sinh sản vị thành niên
Trong quan niện xưa vấn đề SKSS người ta cho rằng chỉ liên quan đến những người đã có gia đình, những cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ. Nhưng trên thực tế (đặc biệt là trong sự phát triển xã hội như hiện nay) ta thấy rằng, thanh thiếu niên chưa có gia đình chưa có gia đình cũng đã có quan hệ tình dục. Do đó, vấn đề SKSS VTN đã trở thành một vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm.
Hiện trạng SKSSVTN đang ở mức báo động, điều đó được thể hiện bằng những con số sau:
- Nạn tảo hôn và kết hôn ở tuổi VTN: Theo điều tra của Tổng cục thống kê, có 17.000 VTN tuổi từ 13 – 14; 126.000 VTN tuổi từ 15 – 17 đã có vợ có chồng. Nguyên nhân của tình trạng trên là do cha mẹ muốn đảm bảo các quan hệ tình dục phải trong khuôn khổ hôn nhân, do quan niệm giá trị chính yếu của con gái là làm mẹ, làm vợ, do các em thiếu cơ hội được học hành và tìm kiếm việc làm.
- Mang thai ngoài ý muốn, phá thai ở tuổi VTN: Theo kết quả khảo sát của Bộ Y tế năm 2002, có 11,2% VTN có quan hệ tình dục, trong đó có 33,9% không sử dụng biện pháp tránh thai nào. Hàng năm có hơn 300.000 phụ nữ thai nghén dưới tuổi 20%, trong đó 80% có thai mà không biết, khoảng 30% số ca phá thai là những phụ nữ trẻ chưa lập gia đình. Nguyên nhân của hiện trạng trên là do thiếu hiểu biết, thiếu chỉ dẫn, thiếu các cơ sở dịch vụ thiên thiện cho nên VTN ít có khả năng thực hiện tình dục an toàn, ít sử dụng các biện pháp tránh thai.
- Nhiễm các bệnh lây truyền qua dường tình dục và HIV/AIDS: ở nước ta tính đến cuối năm 2003 đã có76.180 người nhiẽm HIV, trong đó VTN và thanh niên chiếm khoảng 60%. Thiếu thông tin, kiến thức, công tác giáo dục, tư vấn về tình dụcan toàn con hạn chế, thiếu các dịch vụ phòng chống HIV/AIDS là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên.
- Bị xâm hại và lạm dụng tình dục: ở nước ta có khoảng 80 ngàn gái mại dâm, trong đó 10% là VTN. Theo báo cáo của tòa án tối cao, một nửa nạn nhân trong tổng số 1407 trường hợp bị lạm dụng tình dục là VTN. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, do bạn bè lôi kéo, do lối sống buông thả, do thiếu hiểu biết kĩ năng sống là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên.
Trong cuộc sống hiện nay, VTN gặp rất nhiều khó khăn trong học tập, trong sinh hoạt, trong quan hệ với bố mẹ, bạn bè và trong vấn đề SKSS. Có thể thấy những khó khăn mà VTN đang phải đối mặt, đó là:
- Những lo lắng về thay đổi cơ thể và tâm lí.
- Bối rối trước những cảm xúc nảy sinh từ tình bạn khác giới.
- Băn khoăn trước câu hỏi: “Có phải tình yêu luôn đi đôi với tình dục không?”.
- Nguy cơ bị xâm hại tình dục.
- Lo lắng không biết mình có bị mang thai hay không, và làm thế nào để phòng tránh; Nguy cơ nhiễm BLTQĐTD và HIV/AIDS.
- Bị ép lấy vợ, lấy chồng sớm (tảo hôn).
- Lo lắng không biết hỏi ai, tâm sự với ai về những điều băn khoăn, lo lắng mình đang gặp phải.
Từ những yếu tố trên mà những người lớn, những bậc cha mẹ cần phải hiều được những khó khăn mà lứa tuổi VTN gặp phải để từ đó có sự quan tâm kịp thời. Và bản thân VTN cũng phải nhận thấy những thay đổi mạnh mẽ về thể chất cũng như tâm lí của bản thân để đối phó một cách tích cực với những tác động mạnh mẽ của môi trường xung quanh.
1.2.1.4. Giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên
GDSKSSVTN được coi là một nội dung quan trọng trong GDDS. Mười năm trở lại đây vấn đề này mới được đưa vào trong chương trình của nhà trường, dạy lồng ghép vào nội dung của một số môn học. Từ sau Hội nghị quốc tế Cairo (1994), Bộ Giáo dục - Đào tạo đã nhất trí vấn đề trọng tâm của công tác giáo dục phải là GDSKSS cho VTN.
“GDSKSSVTN là một quá trình cung cấp các thông tin thích hợp bằng moi phương tiện, nhằm mục đích chính là nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của VTN đối với một số vấn đề sức khỏe nhất định nhằm động
viên họ chấp nhận các hành vi lành mạnh để ngăn chặn những nguy cơ như: có thai ngoài ý muốn, các BLTQĐTD ...”.
GDSKSSVTN là một trải nghiệm giáo dục nhằm phát triển khả năng của VTN để hiểu những vấn đề về tính dục trong khuôn khổ về tâm, sinh lý, văn hóa, xã hội và những khía cạnh sinh sản; đồng thời giúp cho VTN nắm bắt những kỹ năng để quyết định và hành động có trách nhiệm nhưngc hành vi tình dục và SKSS của mình, hướng tới cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.
1.2.2. Đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh
Tuổi VTN là một giai đoạn phát triển đặc biệt và mạnh mẽ trong đời của mỗi con người. Đây chính là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con thành người lớn và được đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ cả về thể chất lẫn tinh thần, tình cảm và khả năng hòa nhập cộng đồng.
1.2.2.1. Đặc điểm sinh lý
Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể. Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy. Trung bình một năm các em cao lên được 5 - 6 cm. Các em nam ở độ tuổi 15 - 16 tuổi thì cao đột biến vượt các em nữ. Sự phát triển của hệ xương, mà chủ yếu là các xương tay, xương chân rất nhanh, nhưng xương ngón tay và ngón chân lại phát triển chậm. Vì thế, ở lứa tuổi này các em không mập, béo mà cao, gầy thiếu cân đối, các em có vẻ long ngóng vụng về, không khéo léo khi làm việc, thiếu thận trọng hay làm vỡ…Sự phát triển của hệ thống tim mạch cũng không cân đối. Thể tích của tim tăng rất nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn, nhưng kích thước của mạch máu lại phát triển chậm. Do đó, có một số rôi loạn tạm thời của hệ tuần hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh.
Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng), thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh. Hệ thần kinh của lứa
tuổi này còn chưa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn điệu kéo dài.
Một đặc điểm nữa cần chú ý ở lứa tuổi này này, đó là thời kỳ phát dục. Sự phát dục của các em là. Sự một hiện tượng bình thường, diễn ra theo quy luật sinh học và chịu ảnh hưởng của môi trường tự nhiên và xã hội. Sự phát dục ở các em trai vào khoảng 15,16 tuổi, ở các em nữ vào khoảng 13, 14 tuổi. Biểu hiện của thời kỳ này là các cơ quan sinh dục phát triển và xuất hiện những dấu hiệu phụ của giới tính. Thời kỳ phát dục sớm hay muộn phụ thuộc vào yếu tố dân tộc và yếu tố khí hậu. Đến 15, 16 tuổi giai đoạn phát dục đã kết thúc, vì thế các em đã có khả năng sinh đẻ.
Như vậy, có thể thấy rằng VTN có khả năng sinh sản được nếu có sinh hoạt tình dục. Và vấn đề SKSS không chỉ liên quan đến những ai đã lập gia đình, VTN lúc này đang đứng trước nhiều mối đe dọa, nếu như không có sự hướng dẫn, chăm sóc thì nguy cơ lớn nhất đối với SKSS của VTN là có thai sớm nếu có QHTD và nhiễm BLTQĐTD.
1.2.2.2. Đặc điểm tâm lý
Không chỉ có những biến đổi về mặt sinh lý mà VTN cũng có những biến đổi sâu sắc về mặt tâm lý. Do sự phát triển không cân đối của hệ xương đã gây cho các em một biểu hiện tâm lý khó chịu. Các em ý thức được sự lóng ngóng, vụng về của mình, mà cố che dấu bằng những điệu bộ không tự nhiên, cầu kì, tỏ ra mạnh bạo, can đảm để người khác không chú ý đến vẻ bề ngoài của mình. Chỉ một sự mỉa mai chế giễu nhẹ nhàng về hình thể, tư thế, tư thế đi đứng của các em đều gây cho các em những phản ứng mạnh mẽ.
Tuyến nội tiết hoạt động mạnh, điều đó đã làm cho các em dễ xúc động, dễ bực tức, nổi khùng. Vì thế, ta thấy ở các em thường có những phản ứng gay gắt, mạnh mẽ và có những xúc động mạnh. Hệ thần kinh của VTN còn chưa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn điệu,
kéo dài. Do tác động của những kích thích như thế, thường gây cho các em tình trạng bị hạn chế hay ngược lại xảy ra tình trạng bị kích động mạnh. Vì vậy, sự phong phú của các ấn tượng, những chấn động thần kinh mạnh, hoặc sự chờ đợi lâu dài về những biến cố gây xúc động…đều tác động mạnh mẽ đến VTN, có thể làm một số em bị ức chế, uể oải, thờ ơ, lơ đễnh, tản mạn, số khác làm những hành vi xấu, không đúng bản chất.
Cùng với những biến đổi về thể chất, đời sống tinh thần và tình cảm của tuổi VTN cũng trải qua những biến đổi sâu sắc. Các em có khả năng tự ý thức và tự đánh giá cao. Cho nên, các em tự nhận được rằng mình đã lớn, vì vậy các em thấy rằng kiểu quan hệ với người lớn ở thời thơ ấu không còn phù hợp với về mức độ trưởng thành của bản thân nữa. Đó là kiểu quan hệ giữa người lớn và trẻ con. Do vậy, các em mong muốn “cải tổ” kiểu quan hệ này theo hướng giảm quyền hạn của người lớn và tăng quyền hạn của chính mình, các em muốn độc lập trong suy nghĩ và hành động để thử sức mình nhằm đạt tới cái mình muốn để chứng tỏ mình đã trưởng thành. Ở giai đoạn này thường xảy ra xung đột giữa VTN với cha mẹ vì họ cho rằng các em vẫn còn trẻ con. Điều đó đã tạo ra một khoảng cách giữa cha mẹ và con cái. Để làm mất khoảng cách này, các bậc cha mẹ phải thường xuyên quan tâm đến những suy nghĩ của các em, những biến đổi tâm lý đang diễn ra để có thể hiểu được con mình và trở thành những “người bạn” đáng tin cậy của các em.
Về mặt giao tiếp, nhu cầu giao tiếp với bạn phát triển rất mạnh, các mối quan hệ được mở rộng, nhu cầu về tình bạn tâm tình cá nhân được tăng lên roc rệt. Bạn bè trở thành một phần rất quan trọng trong cuộc sống của VTN. Với các em, tình bạn trơe nên sâu sắc hơn, rất bền vững có thể kéo dài đến suốt cuộc đời và có ảnh hưởng qua lại rất lớn, ảnh hưởng đó có thể là tích cực nhưng cũng có khi là tiêu cực. Do vậy, mà việc lựa chọn bạn ở lứa tuổi này đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Một điều đặc biệt dễ nhận thấy ở giai đoạn này đó là bắt đầu xuất hiện những cảm giác mới lạ, có sự nhạy cảm về giới và cảm xúc giới tính. Các em thường quan tâm đến các bạn khác giới và cũng mong bạn khác giới để ý đến mình. Điều này khiến các em quan tâm đến vóc dáng của mình, hay đứng trước gương để gắm vuốt. Các em bắt đầu thích đọc truyện tình cảm, những tác phẩm viết về những mối tình say mê, quan tâm đến các nhân vật trong truyện, trong phim làm quen nhau như thế nào, thích nhau ra sao và tại sao lại hành động như vậy… và vô tình các em tự tạo nên những rung cảm yêu đương trong tưởng tưởng trong suy tư. Có em trở nên sao nhãng việc học tập.
1.2.3. Xu hướng GDSKSS VTN của một số nước trên thế giới và chiến lược quốc gia về GDSKSS VTN ở Việt Nam.
1.2.3.1. Xu hướng GDSKSS VTN của một số nước trên thế giới.
Vấn đề GDSKSS VTN được nhiều nước trên thế giới quan tâm, nó được thể hiện rõ ở những vấn đề cơ bản sau:
Thứ 1: Giáo dục tình dục cho học sinh trong và ngoài nhà trường. Thứ 2: Cung cấp dịch vụ KHHGĐ theo nhu cầu sử dụng.
Cụ thể:
Bồ Đào Nha: Cho phép thành lập các trung tâm tư vấn dành cho tuổi VTN ở các trung tâm tư vấn và bệnh viện nhằm:
- Cung cấp thông tin chung về họat động tình dục.
- Chuẩn bị cho VTN có hành vi đúng trong cuộc sống tình dục.
- Cung cấp thông tin về giải phẫu sinh lý và sinh lý học sinh sản.
- Cung cấp các phương tiện tránh thai.
- Tất cả thanh niên đều được tư vấn và hướng dẫn KHHGĐ tại các trung tâm miễn phí.
Sau hội nghị Quốc tế về Dân số và phát triển ở Cairo (1994) ở nhiều quốc gia đã có nhiều chuyển biến tích cực về định hướng trong chương