Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân - 2

Khác với các Nhà nước phong kiến và tư bản phương tây, chế độ Nhà nước phong kiến Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nói chung vẫn mang tính hà khắc. Song, thời kỳ đó "phép vua" và "lệ làng" có tính dân tộc, nhân đạo, tiến bộ và được thể hiện rõ nét trong Quốc triều Hình luật là Bộ luật do Nguyễn Trãi soạn thảo, được ban hành năm 1843 có kế thừa, bổ sung những luật lệ được ban hành từ rất nhiều năm trước và được nhiều Bộ luật, luật sau này tiếp thu những tư tưởng tiến bộ. Và suốt các triều đại phong kiến Việt Nam, vua mệnh danh là con trời, cai trị trên nền tảng tư tưởng nho giáo bị các triết lý nho giáo, điều chỉnh hành vi của mình. Vua là cha mẹ của dân, buộc phải thích cái dân thích, ghét cái dân ghét bởi "ý trời là lòng dân". Do đó, vương quyền của vua bị hạn chế, dân cũng có được một số yếu tố về các quyền dù còn nhỏ nhặt mang tính cộng đồng.

Như vậy, trong các thời kỳ cổ đại và phong kiến, tư tưởng về quyền con người đã được đề cập đến nhưng còn rời rạc. Khi cách mạng tư sản nổ ra thắng lợi với những tiền đề tư tưởng và thành tựu của khoa học tự nhiên thì vấn đề quyền con người mới được đặt ra như một học thuyết, hay nói cách khác, quyền con người bắt đầu được chính thức công khai thừa nhận. Có thể nói rằng, sự kiện này được đánh dấu bằng Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776 và sau đó là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp 1789. "Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại , quyền con người chuyển từ phạm vi thỉnh cầu, yêu sách sang phạm vi thực hiện, từ lĩnh vực triết học sang lĩnh vực pháp lý thực tiễn".[40,27]

Sau chiến tranh Thế giới thứ 2, cộng đồng quốc tế thông qua Liên hiệp quốc tuyên bố chính thức về các quyền và tự do của con người bằng Hiến chương Liên hiệp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948. Cụ thể hoá quyền con người trong các văn bản trên, năm 1966, Liên hiệp quốc thông qua Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (ngày 24/9/1982 Việt Nam gia nhập 2 Công ước này). ở Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho thời kỳ phát triển mới về quyền con người trên đất nước ta.

Quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất đồng thời là vấn đề rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa học nghiên cứu, do đó có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về quyền con người. Song, trước hết, quyền con người được

hiểu là những đặc quyền mà con người sinh ra là tự nhiên có. Đó là những đặc quyền mang tính tự nhiên mà nổi bật là quyền được sống, được bảo vệ, được tự do phát triển. Mặc dù, những đặc quyền đó có trước, song chừng nào chưa được công nhận thì chúng không thể được đưa ra áp dụng. Do đó, để đạt tới cái gọi là quyền cần phải có sự ghi nhận mà cụ thể là bằng pháp luật. Các đặc quyền được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh thì mới chính thức trở thành quyền của con người.

Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp luật đảm bảo do cá nhân con người nắm giữ trong các quan hệ của mình với các cá nhân khác và với chính quyền.

Như vậy, quyền con người là hệ thống các quyền của con người được xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Chính vì vậy, quyền con người mang hai đặc tính cơ bản là tính nhân đạo và tính pháp luật. "Quyền con người tuy mang đặc tính tự nhiên nhưng có nội dung xã hội, bị chế ước bởi từng hoàn cảnh lịch sử, từng chế độ xã hội, từng Nhà nước" [32,57] và được "mở rộng và cụ thể hoá cùng với sự phát triển của xã hội loài người" [49,21].

Thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng, quyền con người là quyền của cá nhân con người, nhưng quyền đó chỉ có thể có được trong quan hệ gắn bó với các con người khác trong tập thể, cộng đồng. Hay nói cách khác quyền con người trở nên vô nghĩa khi con người tách khỏi tập thể, cộng đồng và ở trong tập thể, cộng đồng nên quyền của cá nhân con người không thể tách rời nghĩa vụ của họ đối với xã hội, Nhà nước. Vì rằng:"Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội" [19,11].

Quyền con người là giá trị xã hội cao quí nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân" [48,276]. Nhân dân là những con người cụ thể có những quyền thiêng liêng, không ai có thể xâm phạm được.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người


Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân - 2

Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Mặc dù quyền con người có tính"bẩm sinh" nhưng nó không thể chính thức tồn tại nếu không có pháp luật. Trước hết, vai trò quan trọng của

pháp luật đối với quyền con người là nó ghi nhận (xác lập), củng cố, hoàn thiện quyền con người.

Pháp luật ghi nhận các quyền của con người được xã hội thừa nhận. Thông qua pháp luật, quyền con người được lên tiếng bảo vệ. Để bảo đảm quyền con người, pháp luật đưa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm quyền con người. Quyền con người được pháp luật xác lập là thiêng liêng, không thể xâm hại một cách tuỳ tiện và được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của xã hội, Nhà nước. Quyền con người được pháp luật xác lập mang tính tối cao, ổn định không dễ dàng thay đổi. Điều 50 Hiến pháp 1992 khẳng định: quyền con người được quy định trong Hiến pháp và luật - là những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, nó buộc mọi người phải tôn trọng, phục tùng.

Theo tiến trình phát triển của lịch sử loài người, trên phương diện pháp luật, quyền con người ngày càng được củng cố, hoàn thiện. Từ chỗ các ý tưởng về quyền được sống như một con người nhằm thoát khỏi "công cụ biết nói", tư tưởng về quyền con người dần phát triển lên thành những học thuyết, thành các bộ luật riêng lẻ và trở thành tiếng nói chung của cả cộng đồng quốc tế, không phân biệt màu da, địa vị, thành phần. Nhờ có pháp luật mà quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại, được loài người cùng nhau tôn trọng, bảo vệ. "Chỉ thông qua pháp luật quyền con người mới trở thành ý chí và mục tiêu hành động chung của toàn xã hội, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội" [49,47].

"Lịch sử Nhà nước và pháp luật hàng nghìn năm qua và thực tiễn quốc tế của thế kỷ XX đã và đang chứng minh xác đáng một hiện thực sinh động rằng: được xây dựng trên nền tảng của các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền văn minh nhân loại: công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế nên Nhà nước pháp quyền coi các quyền và tự do của con người là những giá trị xã hội cao quý nhất đồng thời là khách thể hàng đầu ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự" [70;9,10]. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người có ý nghĩa đặc biệt trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Nó "phải được xem là hoạt động thường xuyên của Nhà nước để một mặt đảm bảo cho mỗi một bước phát triển của quyền con người, của dân chủ đều được ghi nhận và củng cố bởi các quy định luật pháp phù hợp. Mặt khác, các quy định pháp lý phải mở đường, định

hướng thực hiện phát triển và thúc đẩy quyền con người trong đời sống quốc gia và quốc tế" [59,12]

Song, pháp luật không dừng lại ở việc ghi nhận bước tiến của quyền con người mà nó còn là phương tiện, công cụ không chỉ của Nhà nước mà cả của công dân để bảo vệ và thực hiện quyền con người.

Nhà nước ban hành pháp luật là tạo cơ sở vững chắc cho mọi người tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện các giá trị xã hội được thừa nhận, bảo vệ, mà nổi bật trong các giá trị đó là quyền con người "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật" (Điều 12 Hiến pháp 1992). Pháp luật là công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để bảo đảm thực hiện quyền con người. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có tính bắt buộc cứng rắn nhất bằng cách xác lập những điều cấm mà bất cứ ai cũng không được vi phạm. Đồng thời, pháp luật được bảo đảm thi hành bằng bộ máy Nhà nước cùng với sức mạnh (dư luận) xã hội. Vì thế, các quy định của pháp luật về quyền con người còn được bảo đảm bằng sự cưỡng chế của Nhà nước tránh mọi hành vi xâm hại. Trên cơ sở của pháp luật, mọi hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân đều phải được xử lý nghiêm minh. Như vậy, pháp luật còn là thước đo việc bảo đảm thực hiện quyền con người. Qua công tác thực thi pháp luật mà rút ra những bài học bổ ích cho việc bảo đảm ngày một tốt hơn quyền con người.

Cũng chính từ việc ghi nhận các quyền cơ bản của con người mà pháp luật trở thành phương tiện để công dân có điều kiện bảo vệ mình. Quyền con người đã được pháp luật ghi nhận tất yếu phải được bảo vệ khỏi bất cứ hành vi xâm hại nào. Do đó, pháp luật trước hết là cơ sở vững chắc để công dân đòi quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, pháp luật không thể không ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước, công chức, viên chức Nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong việc bảo đảm quyền con người. Pháp luật là chuẩn mực chung, công bằng đối với mọi người. Do vậy, pháp luật còn là đại lượng để kiểm tra, đánh giá các quyết định, hành vi của Nhà nước, công chức, viên chức Nhà nước, các tổ chức và các thành viên khác trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người.

Nhà nước ban hành pháp luật để quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Con người với các mối quan hệ của nó là đối tượng của sự quản lý Nhà nước. Do đó, có thể xảy ra việc

lộng quyền từ phía Nhà nước và đối diện với nó, quyền của người dân bị hạn chế. Nhờ có các chuẩn mực, tiêu chí của pháp luật mà các sai phạm trên dễ bị phát hiện để khắc phục, sửa chữa. Đối với công dân, để khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, không có phương tiện nào bảo đảm hữu hiệu hơn là bằng pháp luật. Vì vậy, cùng với việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ vì con người, cho con người thì việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người dân để họ bảo vệ riêng mình và bảo vệ xã hội nói chung. Vậy nên "nhân dân phải bảo vệ luật như bảo vệ chốn nương thân của mình" [xem 48,6].

Là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển các mặt của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, văn hoá...) - là điều kiện thiết yếu để thực hiện quyền con người. Bởi vì, quyền con người không thể được tôn trọng, bảo vệ trong một xã hội có nền kinh tế, văn hoá và chính trị khủng hoảng; mà chính trị muốn ổn định thì đường lối chính sách phải được thể chế hoá thành pháp luật mới có đủ sức mạnh thực hiện trong xã hội. Chính vì điều đó mà Hiến pháp, luật của các nước không thể không nhắc đến việc bảo vệ chế độ chính trị xã hội như một trong những mục tiêu chính của mình. Hay nói cách khác để thực hiện đường lối bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, quyền con người phải được thể chế hoá trong pháp luật.

Đối với kinh tế-điều kiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người - pháp luật tạo khuôn khổ và môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi để phát huy mọi tiềm năng cho sản xuất, kinh doanh phát triển đúng hướng, có hiệu quả. Đối với các quyền của con người về kinh tế cũng được quy định bằng pháp luật. "Pháp luật là phương tiện làm cho các quan hệ kinh tế trở thành quan hệ pháp luật" [19,196] và cũng là phương tiện hữu hiệu để các bên tham gia hoạt động kinh tế bảo vệ lợi ích của mình.

Sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ tất yếu cũng đòi hỏi phải được thể chế hoá bằng pháp luật và vì mục tiêu cho con người. Văn hoá giáo dục, khoa học công nghệ phải tạo ra môi trường xã hội lành mạnh, tự do để con người có điều kiện phát triển. Trong môi trường ấy, vừa có điều kiện cho việc phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, vừa có điều kiện để mọi người học tập, vừa thuận tiện cho mọi người được hưởng

quyền thông tin đồng thời cũng hội tụ được những khả năng để đấu tranh không bị "đồng hoá" bởi những yếu tố độc hại lai căng từ bên ngoài.

Ngoài việc điều chỉnh hành vi con người, pháp luật còn là phương tiện đăng tải thế giới quan khoa học, các tư tưởng tiến bộ, có tác dụng giáo dục các thành viên trong xã hội có ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý để họ biết tôn trọng và bảo vệ quyền của các cá nhân con người trong đời sống cộng đồng.

Ngày nay, pháp luật không phải chỉ đóng vai trò tích cực trong bình diện của mỗi một quốc gia mà nó còn là phương tiện quan trọng trong hội nhập quốc tế. Vấn đề quyền con người không thể chỉ là của một người, một cộng đồng, một quốc gia mà còn là của toàn thể nhân loại. Do đó, pháp luật là phương tiện để các quốc gia tham gia hội nhập quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế, bảo đảm cho quyền con người được tôn trọng thực hiện ở mỗi quốc gia đồng thời phù hợp với luật pháp quốc tế.

Vì mục tiêu chung là tạo điều kiện, môi tường thuận lợi cho con người phát triển toàn diện mà loài người hiện nay đang phải đối đầu với những thách thức vô cung to lớn: đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, giải quyết ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chống đói nghèo .... mà đòi hỏi phải có sự nỗ lực đấu tranh chung của cộng đồng thế giới.

Nhằm thực hiện điều đó, Liên hiệp quốc - Tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh - đã thông qua hơn 50 văn kiện quốc tế bảo vệ quyền tự do của con người.

Với quá trình đó, mỗi một quốc gia phải xây dựng nghĩa vụ của mình trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, trong đó có việc xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế và đặc biệt là nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết nêu trong Công ước, tuyên bố và điều ước Quốc tế mà nước mình ký kết hoặc tham gia.

Trước tình hình khu vực hoá, quốc tế hoá hiện nay việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân đặt ra cho pháp luật các yêu cầu phát triển bức bách, thích hợp, một mặt bảo vệ được quyền lợi chính đáng của công dân nước mình, mặt khác không được tạo ra những phiền hà không đáng có cho người nước ngoài và kể cả người không quốc tịch. Như

vậy, pháp luật là phương tiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người giữa các quốc gia và trong cộng đồng quốc tế.

1.2. Đặc trưng quyền con người của bị cáo trong xét xử hình sự.


Quyền con người không những được pháp luật ghi nhận mà còn được pháp luật bảo vệ. Do đó, bất cứ một hành vi vi phạm quyền con người nào cũng phải được xử lý theo pháp luật. Song, tất nhiên quyền con người còn có quan hệ chặt chẽ với chủ quyền quốc gia, lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức, trật tự xã hội... là những khách thể được pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng bảo vệ. Cho nên, những khách thể trên bị xâm hại do bất cứ ai thì người đó phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Quyền con người của bị cáo chỉ có thể được coi là bảo đảm khi xét trong một tổng thể các mối quan hệ khác liên quan đến tội phạm do họ thực hiện. Như vậy, việc xử lý đối với họ buộc phải tuân thủ những trình tự, thủ tục được quy định chặt chẽ trong pháp luật, vì dẫu sao, quyền con người của họ vẫn phải được tôn trọng. Đối với bị cáo, quyền con người của họ là vấn đề hết sức nhạy cảm và có một số đặc trưng sau:

Là người bị Toà án quyết định đưa ra xét xử trên cơ sở kết luận điều tra và cáo trạng của viện kiểm sát quyền con người của bị cáo dễ có nguy cơ xâm hại từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. " Sự xâm hại đó có thể do trình độ non kém trong tổ chức quản lý, do năng lực làm việc hoặc do thiếu tinh thần trách nhiệm và cũng có thể do một bộ phận công chức thoái hoá biến chất, vô đạo đức" [48,49]. Đồng thời một số cán bộ có thẩm quyền chưa nắm vững pháp luật và tính thiếu chặt chẽ, cụ thể của pháp luật cũng là những nguyên nhân dẫn đến việc xâm hại quyền con người.

Trong thực tiễn cuộc sống, với cách thức tổ chức thật uy nghiêm một phiên toà, vị thế của bị cáo thường là yếu hơn so với các cơ quan tiến hành tố tụng. "Có vụ ngay tại công đường mà Thẩm phán, công tố cũng công khai mớm cung, đe doạ ... nếu ngoan cố sẽ tăng hình phạt để ép buộc bị cáo nhận tội không đúng sự thật" [61,60]. Do chỗ vị thế của họ như vậy nên cũng có vụ người tiến hành tố tụng hỏi to tiếng làm bị cáo sợ nên cứ gật đầu hoặc dạ. Nghiêm trọng hơn là có trường hợp, việc tổ chức phiên toà chưa dân chủ nên đã kết tội oan bị cáo, như vụ Bùi Minh Hải bị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt tù chung thân về tội giết người và hiếp dâm nhưng chính tên Tèo mới là thủ phạm gây ra vụ

án này. Tại cơ quan điều tra Bùi Minh Hải khai nhận tội (???) nhưng tại phiên toà bị cáo không nhận tội, song Hội đồng xét xử vẫn buộc tội bị cáo.

Hơn ai hết, bị cáo là người có nguy cơ cao bị tước một hoặc một số quyền. Đành rằng chỉ có người nào phạm tội thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự, song việc tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền công dân của bị cáo như thế nào cho tương xứng, phù hợp, đúng pháp luật là vấn đề vẫn được dặt ra bức xúc.

Cũng chính vì quyền con người của bị cáo dễ có nguy cơ bị xâm hại cho nên nó cần phải có một loạt các quy định bảo đảm nhằm tránh nguy cơ bị tước bỏ hoặc hạn chế trái pháp luật.

Khác với các quan hệ pháp luật khác (hành chính, dân sự, kinh tế), trong quan hệ pháp luật hình sự (cả hình sự và tố tụng hình sự), hàng loạt các quy định riêng được đặt ra nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân của các bên tham gia tố tụng nói chung và của bị cáo nói riêng. Đó là các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của công dân, nghĩa vụ của Nhà nước, của các cơ quan, người tiến hành tố tụng, quy định về tội phạm, hình phạt, trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng. Tổng thể các quy định đó được tập hợp thành những tư tưởng, nguyên tắc: công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế mà hướng tới mục tiêu chung là bảo đảm quyền con người. Của bị cáo không bị tước bỏ trái pháp luật. Các quy định đó không chỉ nhằm tạo cơ sở pháp luật cần thiết cho các cơ quan, cá nhân tiến hành tố tụng và tránh được lạm dụng mà trước hết và chủ yếu là để bảo vệ con người, giúp mọi người biết rõ pháp luật để phòng tránh việc vi phạm điều cấm của pháp luật, đồng thời cũng biết được quyền của mình mà thực hiện, bảo vệ.

Vì giá trị cao quý của quyền con người được xã hội thừa nhận, vì quyền con người được bảo vệ bằng pháp luật, cho nên quyền con người của bị cáo chỉ có thể bị hạn chế theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở pháp luật. ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ có Toà án là cơ quan duy nhất được nhân danh Nhà nước ra quyết định áp dụng các biện pháp hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài Toà án, không một cá nhân hay tổ chức nào có quyền được tước bỏ các quyền của bị cáo. Sự phán quyết của Toà án phải dựa trên cơ sở pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật. "Khi quyết định hình phạt, Toà án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể và chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong luật" [71,36].

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 15/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí