Thực thi cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hoá: thực trạng tác động và định hướng - 2

2. Mục đích nghiên cứu

Hệ thống hóa các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa;

Đánh giá thực trạng thực thi các cam kết;

Phân tích tác động của việc thực thi các cam kết đối với nền kinh tế và các ngành kinh tế của nước ta;

Đưa ra một số định hướng và kiến nghị một số giải pháp nhằm giúp Việt Nam thực thi tốt hơn các cam kết với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và tình hình thực thi các cam kết của Việt Nam từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: tổng hợp, phân tích, thống kê, khái quát hóa và hệ thống hóa.

5. Cấu trúc của khóa luận

Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 3 chương:

Chương I: Giới thiệu chung về WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa.

Chương II: Thực trạng và tác động của việc thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa.

Chương III: Một số định hướng và giải pháp nhằm thực thi tốt hơn các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa.

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ WTO VÀ CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỚI WTO TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA‌‌


I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO

1.1. Bối cảnh ra đời của tổ chức thương mại thế giới (WTO)

1.1.1. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) - Tiền thân của tổ chức thương mại thế giới (WTO)

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã tham gia vào các cuộc đàm phán với mục tiêu tạo lập một tổ chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế. Ban đầu các nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Dự thảo hiến chương thành lập ITO không những chỉ điều chỉnh các quy tắc thương mại quốc tế mà còn mở rộng ra cả các quy định về công ăn việc làm, các hành vi hạn chế thương mại, đầu tư và dịch vụ quốc tế.

Trước khi hiến chương này được thông qua, 23 trong số hơn 50 nước tham gia đã quyết định tiến hành đàm phán để giảm và ràng buộc thuế quan ngay trong năm 1946. Trong vòng đàm phán đầu tiên, các nước đã đưa ra được 45.000 nhân nhượng thuế quan có ảnh hưởng đến khối lượng thương mại giá trị khoảng 10 tỷ USD, tức là khoảng 1/5 tổng giá trị thương mại thế giới. Các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức và “tạm thời” một số quy tắc thương mại trong dự thảo Hiến chương ITO nhằm bảo vệ giá trị của các nhân nhượng nói trên. Kết quả là các quy định thương mại và các nhân nhượng thuế quan được đưa vào Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Ngày 30/10/1947, 23 nước đã ký Nghị định thư về việc áp dụng tạm thời Hiệp định GATT (PPA). Theo đó, các nhân nhượng thuế quan có hiệu

lực từ 30/6/1948. Trong thời gian đó, Hiến chương ITO vẫn tiếp tục được thảo luận. Cuối cùng, tháng 3 năm 1948, Hiến chương ITO đã được thông qua tại Hội nghị về Thương mại và Việc làm của Liên hiệp quốc tại Hanava. Tuy nhiên, quốc hội của một số nước đã không phê chuẩn Hiến chương này. Đặc biệt là Quốc hội Hoa Kỳ rất phản đối Hiến chương Hanava, mặc dù Chính phủ Hoa Kỳ đã đóng vai trò rất tích cực trong việc thiết lập ITO. Tháng 12/1950, Chính phủ Hoa Kỳ chính thức thông báo sẽ không vận động quốc hội thông qua Hiến chương Havana nữa, do vậy trên thực tế, Hiến chương này không còn tác dụng. Vì thế, mặc dù chỉ là tạm thời nhưng GATT đã trở thành công cụ đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế từ năm 1948 cho đến tận năm 1995 khi tổ chức thương mại quốc tế (WTO) ra đời.

Trong 47 năm tồn tại, thông qua 8 vòng đàm phán, GATT đã có những đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy tiến trình thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại quốc tế. Việc giảm thuế liên tục đã thúc đẩy tăng trưởng thương mại thế giới đạt mức trung bình khoảng 8% / năm trong suốt những năm 50 và 60. Nếu như trong 5 vòng đàm phán đầu tiên, GATT chủ yếu tập trung vào đàm phán giảm thuế quan thì từ vòng đàm phán Kenedy, nội dung đàm phán mở rộng dần sang các lĩnh vực khác. Vòng đàm phán cuối cùng – Vòng Uruguay – đã mở rộng nội dung sang hầu hết các lĩnh vực thương mại và liên quan đến thương mại bao gồm: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ...và kết quả là cho ra đời một tổ chức thay thế cho GATT, đó là WTO. Quy mô của GATT cũng không ngừng được mở rộng. Cho tới trước khi WTO được thành lập vào ngày 1/1/1995, GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập.

1.1.2. Sự ra đời của WTO

Mặc dù đã đạt được những thành công lớn, nhưng đến cuối những năm 80, đầu 90, trước những biến chuyển của tình hình thương mại quốc tế

và sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, GATT bắt đầu tỏ ra có những bất cập , không theo kịp tình hình.

Thứ nhất, những thành công của GATT trong việc giảm và ràng buộc thuế quan ở mức thấp cộng với một loạt các cuộc suy thoái kinh tế trong những năm 70 và 80 đã thúc đẩy các nước tạo ra các loại hình bảo hộ phi thuế quan khác nhau để đối phó với hàng nhập khẩu hoặc ký kết các thỏa thuận song phương dàn xếp thị trường, đồng thời làm nảy sinh nhiều hình thức hỗ trợ và trợ cấp mới. Những biến đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi những giá trị mà việc giảm thuế quan mang lại cho thương mại quốc tế. Trong khi đó, phạm vi của GATT không cho phép đề cập một cách cụ thể và sâu rộng đến các vấn đề này.

Thứ hai, đến những năm 80, GATT đã không còn thích ứng với thực tiễn thương mại thế giới. Khi GATT được thành lập năm 1948, Hiệp định này chủ yếu điều tiết thương mại hàng hóa hữu hình. Từ đó tới nay, thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng, mở rộng sang các lĩnh vực thương mại dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, tư vấn...Các loại hình thương mại dịch vụ này, cùng với các vấn đề trong đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đã phát triển nhanh chóng và trở thành một bộ phận quan trọng của thương mại quốc tế.

Thứ ba, trong một số lĩnh vực của thương mại hàng hóa, GATT còn có những lỗ hổng cần phải được cải thiện. Ví dụ, trong nông nghiệp và hàng dệt may, các cố gắng tự do hóa thương mại đã đạt được thành công lớn. Kết quả là còn rất nhiều ngoại lệ và quy tắc chung trong hai lĩnh vực thương mại này.

Thứ tư, về mặt cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp, GATT cũng tỏ ra không thích ứng với tình hình thế giới. GATT chỉ là một hiệp định, việc tham gia mang tính chất tùy ý. Thương mại quốc tế ở những năm 80 và 90 đòi hỏi phải có một tổ chức thường trực, có nền tảng pháp lý vững chắc để đảm bảo thực thi các hiệp định. Về hệ thống giải quyết tranh chấp, GATT

chưa có một cơ chế điều tiết thủ tục tố tụng chặt chẽ, không đưa ra một thời gian biểu nhất định, do đó các vụ tranh chấp thường kéo dài, dễ bị bế tắc.

Những yếu tố trên, kết hợp với một số nhân tố khác đã thuyết phục các bên tham gia GATT cần nỗ lực để củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Từ năm 1986 đến 1994, Hiệp định GATT và các quy định phụ trợ của nó đã được các nước thảo luận và sửa đổi, cập nhật để thích ứng với điều kiện thay đổi của môi trường thương mại thế giới. Hiệp định GATT năm 1947, cùng với các quyết định đi kèm và một vài biên bản giải thích khác đã hợp thành GATT 1947. Một số hiệp định riêng biệt được xây dựng trong các lĩnh vực như Nông nghiệp, Dệt may, Trợ cấp, Tự vệ và các lĩnh vực khác...cùng với GATT 1994 đã tạo thành các yếu tố của các hiệp định Thương mại đa phương về Thương mại Hàng hóa. Vòng đàm phán Uruguay cũng thông qua một loạt các quy định mới điều chỉnh thương mại dịch vụ và quyền sở hữu liên quan đến thương mại. Một trong những thành công lớn nhất của vòng đàm phán lần này là cuối vòng đàm phán, các nước đã cho ra Tuyên bố Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới. WTO bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.

1.2. Mục tiêu và chức năng hoạt động của WTO

1.2.1. Mục tiêu của WTO

Mục tiêu của WTO được nêu ra ở lời nói đầu của Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới. Các mục tiêu đó được kế thừa từ các mục tiêu do Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1947) nêu ra và được phát triển, bổ sung trong những điều kiện mới của kinh tế và thương mại thế giới. Các mục tiêu đó gồm:

Phát triển sản xuất và thương mại;

Nâng cao mức sống của người dân các nước thành viên; Tạo công ăn việc làm, góp phần tăng thu nhập thực tế cũng như nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư;

Mở rộng sản xuất, thương mại hàng hóa và dịch vụ;

Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của thế giới gắn liền với việc bảo đảm sự phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi trường;

Xây dựng một cơ chế thương mại đa phương chặt chẽ, ổn định và khả thi;

Thực thi các mục tiêu đó theo cách thức phù hợp với nhu cầu cũng như mối quan tâm của các Thành viên có trình độ phát triển khác nhau, đặc biệt là nỗ lực tích cực để đảm bảo rằng các thành viên đang và kém phát triển duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế.

1.2.2. Chức năng của WTO

Hiệp định Marrakesh đã nêu lên các chức năng sau của WTO:

Quản lý, điều hành việc thực thi Hiệp định Marrakesh cũng như các hiệp định Thương mại đa phương, đồng thời tạo khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý và thực thi các hiệp định thương mại nhiều bên;

Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các Thành viên về các mối quan hệ thương mại đa phương, và tạo ra những khuôn khổ chung cho việc thực hiện các kết quả đàm phán đã đạt được;

Điều hành thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp;

Điều hành cơ chế rà soát chính sách thương mại.

Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác đặc biệt là với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) nhằm đạt tới sự phối hợp tốt hơn trong việc hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu.

1.3. Cơ cấu tổ chức của WTO

Về cơ cấu tổ chức, WTO có ba cơ quan chủ yếu là Hội nghị Bộ trưởng, Đại Hội đồng và Ban thư ký, trong đó Hội nghị Bộ trưởng và Đại Hội đồng là các cơ quan có quyền ra quyết định.

Uỷ ban Phát triển Môi trường Ngân sách v.v.

Uỷ ban Nông nghiệp BT, AD

ROO, SG v.v

Uỷ ban Tài chính v.v

Hội đồng Hàng hoá

Hình 1.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của WTO


DSB (Cơ quan giải quyết tranh chấp)

Cơ quan rà soát chính sách

Hội nghị bộ trưởng

Đại hội đồng


Cơ quan tố tụng

Hội đồng Dịch vụ

Hội đồng TRIPs



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Thực thi cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hoá: thực trạng tác động và định hướng - 2


Nguồn: Dự án hỗ trợ thương mại Đa biên Mutrap


Hội nghị Bộ trưởng

Hội nghị Bộ trưởng là cơ quan quyền lực cao nhất của WTO, gồm đại diện của tất cả các thành viên, họp ít nhất hai năm một lần. Đây là cơ quan có quyền đưa ra quyết định cao nhất của WTO. Hội nghị Bộ trưởng thực thi các chức năng của WTO, đưa ra những quyết định mang tính chiến lược và quan trọng nhất như những quyết định liên quan đến mọi vấn đề trong các hiệp định Thương mại đa phương, kết nạp Thành viên mới… Hội nghị Bộ trưởng còn đứng ra thành lập các ủy ban chuyên trách của mình như ủy ban về thương mại và phát triển, ủy ban về các hạn chế đối với cán cân thanh toán, ủy ban về ngân sách, tài chính và quản trị ...

Đại Hội đồng

Đại Hội đồng là cơ quan chấp hành của WTO, gồm đại diện của tất cả các thành viên và được nhóm họp ở thời điểm cần thiết. Đại Hội đồng thực hiện các chức năng của WTO giữa hai kỳ Hội nghị Bộ trưởng và thực hiện các chức năng khác được Hiệp định WTO giao phó. Đại Hội đồng còn có quyền hạn đưa ra và thông qua các qui tắc liên quan đến hoạt động của các ủy ban chuyên trách của WTO. Đại Hội đồng cũng có thể kiêm chức năng là Cơ quan Giải quyết tranh chấp và Cơ quan rà soát chính sách thương mại. Đại Hội đồng cũng có quyền quyết định kết nạp Thành viên mới như trường hợp cuộc họp của Đại Hội đồng quyết định kết nạp Việt Nam trở thành Thành viên của WTO vào ngày 07/11/2006.

Các ủy ban, Hội đồng chuyên trách

Cấp tiếp theo là các Hội đồng thương mại hàng hóa, Hội đồng thương mại dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Những hội đồng này có trách nhiệm báo cáo lên Đại hội đồng. Ngoài ra, còn có rất nhiều ủy ban chuyên trách và các nhóm công tác khác nhau trực thuộc các Hội đồng như ủy ban chống bán phá giá, ủy ban trợ cấp và các biện pháp đối kháng, ủy ban về môi trường, Nhóm công tác về mở cửa thị trường…

Ban thư ký

Mặc dù không phải là một cơ quan ra quyết định và đơn thuần là một cơ quan hành chính nhưng Ban thư ký có vai trò rất quan trọng. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban thư ký là cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật và chuyên môn cho các hội đồng, các ủy ban; cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho các Thành viên đang phát triển; theo dõi và phân tích tình hình phát triển của thương mại thế giới; và là phát ngôn viên của WTO trước Tổng giám đốc do Đại Hội đồng chỉ định. Ban thư ký có khoảng 600 nhân viên.

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 12/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí