ban nhân dân cấp xã và các Tổng công ty nhà nước. Các nội dung về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và biên chế của tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng được thực hiện theo các quy định tại Nghị định số 122/2005/NĐ- CP ngày 04/10/2005 của Chính phủ về tổ chức làm công tác TĐKT.
Đồng thời, khi thực hiện cần phải tuân theo nguyên tắc gọn nhẹ, linh hoạt, có hiệu quả và không cứng nhắc, phù hợp với thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương.
(2) Việc THPL về tổ chức Hội đồng Thi đua - Khen thưởng được quy định tại Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ, theo đó, có những nội dung mang tính nguyên tắc sau: Một là, chủ tịch Hội đồng TĐKT là người đứng đầu đơn vị; Hai là, thủ trưởng đơn vị chuyên trách công tác TĐKT là Phó Chủ tịch thường trực hoặc là Ủy viên thường trực, phụ thuộc vào cấp hành chính của bộ máy làm công tác TĐKT trong đơn vị; Ba là, bộ máy làm công tác TĐKT trong đơn vị có vai trò là cơ quan thường trực của Hội đồng TĐKT.
2.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng
Mỗi một nội dung thực hiện pháp luật TĐKT được thể hiện ra ngoài qua các hình thức THPL cụ thể, phụ thuộc vào nội dung, chủ thể và đối tượng được quy định. Tuy nhiên có những nội dung được thể hiện qua nhiều hình thức THPL, cũng có những nội dung được thể hiện qua một hình thức THPL. Trong quá trình thực hiện các hình thức THPL cũng có sự tác động và chuyển hoá lẫn nhau. Cũng như các lĩnh vực khác, pháp luật TĐKT được thực hiện qua bốn hình thức sau đây.
2.2.2.1. Tuân thủ pháp luật thi đua, khen thưởng
Căn cứ vào tính chất của hình thức tuân thủ pháp luật nói chung, tuân thủ pháp luật trong THPL TĐKT là hình thức THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật tự kiềm chế mình để không thực hiện những hành vi mà pháp luật thi đua, khen nghiêm cấm, không cho phép thực hiện. Nghiên cứu pháp luật
TĐKT cho thấy, các quy định có nội dung nghiêm cấm trong THPL TĐKT, tập trung ở một số hành vi sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Thực Hiện Pháp Luật Thi Đua, Khen Thưởng
- Đặc Điểm Thực Hiện Pháp Luật Thi Đua, Khen Thưởng Ở Việt Nam
- Thực Hiện Pháp Luật Về Thi Đua, Khen Thưởng Góp Phần Bảo Đảm Môi Trường Thi Đua, Khen Thưởng Hiệu Quả, Thực Chất
- Thực Hiện Pháp Luật Thi Đua, Khen Thưởng Ở Một Số Nước Và Giá Trị Tham Khảo Đối Với Việt Nam
- Kết Quả Thực Hiện Pháp Luật Thi Đua, Khen Thưởng Ở Việt Nam Hiện Nay Và Nguyên Nhân
- Tỷ Lệ Khen Thưởng Bằng Khen Cấp Bộ Đối Với Người Trực Tiếp Lao Động, Sản Xuất
Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.
Thứ nhất, trong THPL về tổ chức phát động các PTTĐ: (1) không được tổ chức TĐKT trái với chính sách, pháp luật của Nhà nước; (2) không được lợi dụng TĐKT để vụ lợi; (3) không được cản trở hoặc ép buộc tham gia các PTTĐ;
Thứ hai, trong THPL về khen thưởng: (1) đối với cá nhân, tập thể đề nghị khen thưởng, không được kê khai gian dối, làm giả hồ sơ; (2) đối với cấp xác nhận, trình khen thì không được xác nhận, đề nghị sai trong hồ sơ đề nghị khen thưởng; (2) đối với cấp có thẩm quyền khen thưởng không được lạm dụng chức vụ, quyền hạn để đề nghị, quyết định khen thưởng trái pháp luật;
Thứ ba, trong THPL về tổ chức quản lý nhà nước về công tác TĐKT:
(1) không được lãng phí tài sản của Nhà nước, tập thể trong TĐKT; (2) trong quản lý quỹ TĐKT, ngoài mục đích chi để tổ chức các PTTĐ và thực hiện chính sách, chế độ về khen thưởng thì pháp luật TĐKT cũng quy định cụ thể nghiêm cấm sử dụng quỹ TĐKT để chi các mục đích khác (Khoản 3 Điều 64 Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật TĐKT).
Như vậy, hình thức tuân thủ pháp luật TĐKT có thể biểu hiện cách xử sự thụ động của các chủ thể; song, nó cũng có thể biểu hiện sự tự giác, chủ động và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật TĐKT.
2.2.3.2. Chấp hành pháp luật thi đua, khen thưởng
Chấp hành pháp luật TĐKT là một hình thức THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật TĐKT thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ pháp lý của mình bằng các hành động tích cực được quy định trong pháp luật TĐKT. Số lượng các quy định đề cập tới trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể trong THPL TĐKT cũng không có nhiều. Chủ yếu tập trung đối với các chủ thể là các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động TĐKT, cụ thể:
Thứ nhất, trong THPL về phát động, tổ chức PTTĐ: các cấp thẩm
quyền có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác TĐKT theo quy định của pháp luật TĐKT. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc tổ chức các cuộc vận động, các PTTĐ, đồng thời thực hiện công tác tuyên truyền, động viên các thành viên của mình và tham gia với các cơ quan chức năng tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện pháp luật về TĐKT cũng như giám sát việc thực hiện pháp luật về TĐKT.
Đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị phát động PTTĐ, lưu ý thực hiện các trách nhiệm được quy định tại Điều 15 của Luật TĐKT bao gồm: (1)Tổ chức các PTTĐ phải gắn kết với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; (2) Triển khai các hoạt động nhằm cổ vũ, động viên, khích lệ người lao động; (3) Đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện phát động, triển khai, sơ kết, tổng kết công tác TĐKT;
(4) Chú trọng công tác phát hiện, tuyên truyền, phổ biến và nhân rộng các gương điển hình tiên tiến, tấm gương người tốt việc tốt trong đơn vị; (5) Ban hành và triển khai có hiệu quả các chính sách khen thưởng...
Thứ hai, đối với cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng có trách nhiệm: (1) Tham mưu, đề xuất chủ trương trong công tác thi đua; (2) Xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung thi đua; (3) Hướng dẫn tổ chức thi đua và kiểm tra thực hiện; (4) Tham mưu việc sơ kết, tổng kết, đề xuất khen thưởng và kiến nghị đổi mới công tác TĐKT…
Thứ ba, đối với đối tượng chịu sự quản lý nhà nước trong hoạt động thi đua, khen thưởng c các trách nhiệm chấp hành các quy định của pháp luật cũng như nội quy, quy chế TĐKT; các hiện vật khen thưởng phải được bảo quản, giữ gìn; từ chối nhận nhận DHTĐ hoặc HTKTtrong trường hợp không đúng đối tượng, điều kiện, tiêu chuẩn…
2.2.3.3. Sử dụng pháp luật thi đua, khen thưởng
Sử dụng pháp luật về TĐKT là hình thức của THPL. Theo đó, các chủ
thể thực hiện quyền của mình một cách tự giác và tích cực, nghĩa là thực hiện các hành vi mà pháp luật TĐKT cho phép. Đây là một trong những hình thức quan trọng nhất của các tổ chức, cá nhân được pháp luật TĐKT quy định chi tiết, cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền lợi ích, là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm tôn trọng và phải tạo mọi điều kiện cho tổ chức, cá nhân sử dụng quyền dân chủ của mình.
Thứ nhất, đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân c thẩm quyền: (1) phát động các PTTĐ và xây dựng các chính sách khen thưởng trong phạm vi quản lý; (2) quyết định tặng các DHTĐ, HTKT cho các cá nhân, tập thể đạt các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định; (3) ngoài các HTKT được quy định, có thể ban hành, triển khai các hình thức khác nhằm cổ vũ, khích lệ người lao động, động viên PTTĐ, đảm bảo phù hợp với các quy định pháp luật.
Thứ hai, đối với các tập th , cá nhân là đối tượng của pháp luật TĐKT thực hiện các quyền sau: (1) Tham gia trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện các PTTĐ; (2)Bày tỏ ý kiến trong việc xét tặng hoặc không xét tặng DHTĐ, HTKT cho bản thân hoặc tập thể, cá nhân khác; (3) Khiếu nại, tố cáo theo quy định pháp luật trong việc thực hiện pháp luật TĐKT.
2.2.3.4. Áp dụng pháp luật về thi đua, khen thưởng
Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức được Nhà nước trao quyền nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với cá nhân, tổ chức. Như vậy, áp dụng pháp luật về TĐKT là một hình thức THPL đặc biệt. Theo đó, nhà nước thông qua các cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật TĐKT thực hiện các quy định của pháp luật về TĐKT; hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật TĐKT để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể trong thực hiện pháp luật TĐKT.
Thứ nhất, trong tổ chức, phát động các PTTĐ: (1) cấp có thẩm quyền căn cứ vào tình hình thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương, phát động các PTTĐ ngắn hạn hoặc dài hạn trong phạm vi quản lý; (2) quyết định áp dụng các biện pháp tuyên truyền, động viên nhằm phát huy hiệu quả của các PTTĐ trong tăng năng suất lao động.
Thứ hai, trong thực hiện pháp luật về khen thưởng: (1) căn cứ vào các quy định về thẩm quyền khen thưởng, cấp có thẩm quyền ra quyết định khen thưởng đối với tập thể, cá nhân thuộc đối tượng khen thưởng, đảm bảo đầy đủ các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng; (2) căn cứ vào hồ sơ cụ thể, cấp có thẩm quyền ra quyết định thu hồi quyết định và các hiện vật khen thưởng đối với các cá nhân, tập thể có hành vi sai phạm.
Thứ ba, trong trực hiện pháp luật về tổ chức, bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng: cấp có thẩm quyền căn cứ vào các quy định pháp luật và thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương, ra quyết định thành lập, giải thể, sát nhập bộ máy làm công tác TĐKT trong đơn vị.
Theo pháp luật hiện hành thì áp dụng pháp luật trong lĩnh vực TĐKT là một nội dung cụ thể, đặc biệt và quan trọng của hình thức áp dụng pháp luật nói chung. Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra, xác minh để làm rõ sự thật khách quan trong từng trường hợp, xem xét, đề xuất người có thẩm quyền ban hành quyết định. Để việc áp dụng pháp luật về TĐKT liên quan đến những nội dung nói trên được kịp thời, đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng của tổ chức, cá nhân, pháp luật TĐKT cũng quy định rõ ràng, cụ thể về quy trình, thời hạn, thẩm quyền cho các tổ chức, cá nhân để áp dụng pháp luật về TĐKT. Đây cũng là những cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức áp dụng có hiệu quả pháp luật về TĐKT.
Như vậy, mặc dù tính chất, phạm vi, mức độ thực hiện có khác nhau, song, THPL về TĐKT bao hàm đầy đủ các hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. THPL về TĐKT, dù
được tiến hành bằng hình thức nào cũng phải đảm bảo yêu cầu pháp chế, tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật và giữ vững đường lối của Đảng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
2.3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở VIỆT NAM
2.3.1. Yếu tố chính trị
Chính trị có sự tác động, ảnh hưởng trực tiếp tới THPL TĐKT. Không giống với kinh tế, tác động, ảnh hưởng của yếu tố chính trị đối với THPL TĐKT là tác động, ảnh hưởng giữa các bộ phận thuộc thượng tầng kiến trúc. Mối quan hệ giữa yếu tố chính trị và việc THPL là mối quan hệ có sự tác động qua lại, ảnh hưởng và tương hỗ lẫn nhau. Sự tác động của yếu tố chính trị đối với THPL TĐKT thể hiện trên những khía cạnh khác như:
Thứ nhất, chính trị trước hết được nhận diện qua các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về TĐKT cần phải được luật hóa thành các quy định của pháp luật, là cơ sở pháp lý để THPL TĐKT trong cuộc sống. Việc THPL TĐKT được điều chỉnh bởi những nguyên tắc, quy định rất cụ thề từ việc tổ chức PTTĐ (đối tượng, phạm vi, nội dung,…), công tác khen thưởng (đối tượng, điều kiện, tiêu chuẩn…) cho đến các nội dung khác.
Thứ hai, theo nguyên tắc "Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước", sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện trên các phương diện khác nhau trong đó TĐKT là một nội dung trong phương thức lãnh đạo của Đảng đã và đang được ghi nhận và thể hiện một cách sâu sắc trong thực tiễn cuộc sống.
2.3.2. Yếu tố kinh tế
Cũng giống như các lĩnh vực pháp luật khác, pháp luật TĐKT nằm ở thượng tầng kiến trúc, do đó bị quyết định bởi các yếu tố cơ sở hạ tầng, trong đó có kinh tế. Yếu tố kinh tế tác động tới việc thực hiện pháp luật TĐKT có
thể nhìn nhận ở hai nội dung: một là trong triển khai các PTTĐ, hai là trong công tác khen thưởng.
Tác động của yếu tốt kinh tế tới thực hiện pháp luật TĐKT thể hiện trước hết trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật TĐKT. Nếu không có điều kiện kinh tế thì không thể triển khai tốt các PTTĐ cũng như công tác TĐKT trong thực tiễn. Nội dung thực hiện pháp luật TĐKT gồm nhiều khâu, nhiều quy trình khác nhau như phát động PTTD, tuyên truyên chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về TĐKT, thực hiện tuyên truyền các gương điển hình tiên tiến, mở rộng mô hình, cách làm hay của các tập thể, cá nhân người tốt, việc tốt; sơ kết, tổng kết PTTĐ… Phải có sự đảm bảo trước hết về kinh tế thì công tác TĐKT mới được tổ chức thực hiện có hiệu quả, đi vào thực chất và tạo điều kiện thuận lợi để mọi cá nhân, tập thể trong xã hội có thể tiếp cận được.
Ngoài ra, trong công tác khen thưởng, yếu tố kinh tế còn được đánh giá qua các quyền lợi kèm theo các HTKT. Mức thưởng phải tương xứng với mức độ thành tích đạt được của các cá nhân, tập thể trong PTTĐ. Tuy rằng không phải trong mọi trường hợp, mức thưởng ít sẽ làm giảm động lực phấn đấu của người lao động. Nhưng nếu có mức thưởng phù hợp sẽ khơi gợi được người lao động nỗ lực làm việc hơn rất nhiều lần.
2.3.3. Yếu tố văn hóa, tư tưởng
Văn hóa là có sự tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện pháp luật TĐKT. Sự tác động, ảnh hưởng của văn hóa đối với thực hiện pháp luật TĐKT thể hiện trước hết và rõ ràng nhất là quyền bình đẳng, công bằng của mọi đốiatượng và mọi thành phần trong xãahội. Theo đó, mọi tập thể, cá nhân đều bình đẳng, không phân biệt trong thực hiện quyền tham gia vào PTTĐ và xét khen thưởng. Thi đua và khen thưởng được xem xét đưới khía cạnh là trách nhiệm là quyền lợi của mỗi một tập thể, cá nhân. Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo cho mỗi tập thể, cá nhân thực hiện quyền tham gia PTTĐ và
công tác khen thưởng. Mọi tập thể, cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật; tập thể, cá nhân khi thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, đạt thành tích trong các PTTĐ sẽ được nhà nước khen thưởng và ngược lại.
Sự tác động, ảnh hưởng của yếu tố tư tưởng đối với thực hiện pháp luật TĐKT chính là là quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về về công tác TĐKT. Ở mức độ trực tiếp là nhận thức của các tập thể, cá nhân, đặc biệt là người đứng đầu về vị trí, tầm quan trọng của công tác TĐKT trong các mặt đời sống xã hội. Sự tác động này còn thể hiện ở khía cạnh nghiên cứu, nhận thức của các cá nhân về công tác thực hiện pháp luật TĐKT trong cuộc sống, để từ đó có thể đưa ra những ý kiến phản biện, những nhận xét, đánh giá nhằm hoàn thiện pháp luật về TĐKT và nâng cao hiệu quả của thực hiện pháp luật TĐKT.
Luật TĐKT được áp dụng chung cho tất cả các tập thể, cá nhân trong toàn quốc. Tuy nhiên, đối với một vùng miền, khu vực địa lý khác nhau, với những văn hóa bản địa khác nhau, việc thực hiện pháp luật TĐKT phải được linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của văn hóa đó. Chẳng hạn, cách thức tuyên truyền về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TĐKT tới đồng bào người dân tộc thiểu số, những khu vực miền núi… phải khác với cách tuyên truyền ở các khu vực trung tâm thành phố. Hay quyền lợi đi kèm với các HTKT cũng linh hoạt, ngoài mức thưởng bằng tiền mặt theo quy định của pháp luật, có thể nghiên cứu các phần thưởng bằng hiện vật hoặc quyền lợi khác phù hợp với nhu cầu, văn hóa của địa phương. Để từ đó, ngoài việc thực hiện pháp luật TĐKT hiệu quả hơn, mà còn đem lại sự quan tâm của người dân, người lao động tới công tác TĐKT nhiều hơn.
2.3.4. Yếu tố xã hội
Sự tác động của yếu tố xã hội đối với thực hiện pháp luật TĐKT là biểu hiện của mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội. Theo đó, yếu tố xã hội (được hiểu là toàn bộ đời sống vật chất của xã hội và những điều kiện sinh