nghiên cứu dòng thơ này theo tiến trình trước và sau đổi mới (1986). Sự kiện đổi mới mở ra bước ngoặt lớn trong đời sống văn học ở nước ta: lí luận văn chương được nhận thức lại, các lí thuyết phê bình phương Tây được truyền bá và ứng dụng rộng rãi, bước đầu đạt được một số thành tựu rất đáng ghi nhận. Tuy vẫn còn những mặt “yếu kém, khuyết điểm” [9, tr.11], nhưng nhìn chung, nền lí luận phê bình văn học ở nước ta sau đổi mới thực sự phong phú, đa dạng (và cũng phức tạp) hơn trước. Một số quan niệm khô cứng, lỗi thời (thậm chí giáo điều, ấu trĩ) được thay thế bằng cách nhìn mới mẻ, linh hoạt hơn. Tất nhiên cũng không phủ nhận những thành tựu từ trước để lại, đổi mới là vừa thay đổi vừa tiếp nối trong tình thế mới.
Từ sự hiểu như vậy, chúng tôi lấy sự kiện đổi mới (1986) làm mốc chia các công trình nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất: từ khi dòng thơ trẻ hình thành (nửa đầu thập niên 60, thế kỷ XX) đến 1986 (phê bình đồng hành sáng tác). Giai đoạn thứ hai: từ 1986 đến nay (tiếp tục phê bình, đánh giá lại). Ở giai đoạn thứ nhất, về phương diện lịch sử, rõ ràng có hai chặng. Chặng một: trước 1975, tức thời đất nước chiến tranh. Chặng hai, mười năm đầu hậu chiến, tức tiền đổi mới. Nhìn chung cả hai chặng, các nhà nghiên cứu tiếp cận thơ trẻ thời chống Mỹ chủ yếu theo hướng xã hội học, thiên về khám phá nội dung tư tưởng, chưa chú ý nhiều đến sáng tạo hình thức, thi pháp. Bối cảnh xã hội thời ấy định hướng như vậy, chưa thể khác được. Tuy nhiên, đến cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 đã bắt đầu xuất hiện một số nhà phê bình tiên phong đổi mới tư duy (chẳng hạn Hoàng Ngọc Hiến). Trong nghiên cứu thơ trẻ, hướng tiếp cận, sự đánh giá cũng có những dấu hiệu thay đổi (chẳng hạn Nguyễn Trọng Tạo: “Chất trẻ trong thơ trẻ chống Mỹ” - 1981). Nhưng nhìn chung, những tín hiệu ấy chưa đủ để khẳng định đã có bước ngoặt trong nghiên cứu dòng thơ này. Phải sau 1986, việc đánh giá thơ trẻ thời chống Mỹ mới thực sự đa chiều, đa ý kiến, nhiều thi phẩm bị phê phán trước đây được soi xét lại, trong đó có những sáng tác được “chiêu tuyết” và phổ biến rộng rãi (như Trò chuyện với Thúy Kiều - Lý Phương Liên, Vòng trắng - Phạm Tiến Duật, Sẹo đất - Ngô Văn Phú...). Những diễn biến này liên quan đến không khí dân chủ, “cởi trói” trong phê bình và sáng tạo văn học thời kì đổi mới.
Phác thảo mấy nét trên để thấy rằng, mỗi giai đoạn có đặc điểm về hoàn cảnh xã hội, gắn với nó là quan niệm tiếp nhận, đánh giá văn chương cũng khác nhau. Những công trình nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ, bên cạnh những tương đồng, tất sẽ có khác biệt. Do số lượng công trình nghiên cứu dòng thơ này khá dồi dào với nhiều hướng tiếp cận khác nhau, trong khi phần Lịch sử vấn đề lại hạn hẹp, không thể tổng thuật tất cả, nên chúng tôi chỉ điểm luận những công trình, những bài viết tiêu biểu và một số hướng nghiên cứu liên quan đến Luận án, cũng như thấy được sự thay đổi trong thẩm định, đánh giá thơ trẻ qua mỗi giai đoạn.
2.1. Giai đoạn trước đổi mới 1986
Thơ trẻ thời chống Mỹ là một thực thể vận động liên tục, gắn với cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc; nghiên cứu về nó cũng chưa bao giờ đứt gãy. Tuy trước đổi mới (1986), hệ quy chiếu trong phê bình đánh giá chưa có gì thay đổi, nhưng để tương hợp với bước chuyển của lịch sử, sát với diễn trình vận động của dòng thơ này, chúng tôi tạm phân những công trình nghiên cứu thành hai chặng:
● Chặng thứ nhất: từ khi thơ trẻ hình thành đến 1975
Chúng tôi muốn dành dung lượng nhiều hơn để điểm luận những công trình nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ ở chặng thứ nhất, tức chặng đất nước chiến tranh; cũng là chặng phê bình đồng hành sáng tác, kết nối rất hiệu quả với người đọc. Những bài viết, những công trình nghiên cứu hồi ấy có ý nghĩa khai mở, làm tư liệu quý cho những ai tiếp tục khám phá dòng thơ này ở chặng sau.
Trước hết, có một sự thực đến kì lạ, chiến tranh ác liệt mà thơ thì bùng phát: lãnh tụ làm thơ, dân thường làm thơ, người già - trẻ em đều có thơ, đông đảo độc giả cũng hết lòng với thơ. Khắp nơi, người ta đọc thơ, bình thơ, ngâm thơ, nói chuyện thơ,... bất kể bom đạn và gian khổ hy sinh, cứ ngỡ như đó là cái thời “quyền lực” của thơ. Thế hệ nhà thơ trẻ ra đời, vận động trong bối cảnh như vậy. Ngay từ khi thơ họ vừa “đăng đàn” thì liền được nhiều nhà phê bình chú ý, đông đảo người đọc quan tâm. Những nhà thơ sớm bộc lộ tài năng, chắc chắn không bao lâu sẽ có bài giới thiệu đăng trên các tờ báo lớn. Có thể nói, thời ấy, lực lượng phê bình văn học tuy không đông nhưng rất mạnh. Họ bắt nhịp rất nhanh, rất nhạy, “kích cầu” rất kịp thời, góp phần tích cực vào đời sống văn học vốn nhộn nhịp, nhiều khởi sắc.
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ - Cảm hứng và giọng điệu - 1
- Giai Đoạn Từ Đổi Mới 1986 Đến Nay
- Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ - Cảm hứng và giọng điệu - 4
- Thơ Chống Mỹ: Biên Độ Thời Gian, Đặc Điểm Nổi Bật
Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.
Người tiên phong như một bậc thầy trong lĩnh vực này là nhà phê bình Hoài Thanh. Với năng lực thẩm thơ đạt đến mức “thiên phú”, với độ nhạy, độ cảm hiếm có, những bài viết của ông tinh tế, chuẩn xác, sức thuyết phục cao. Những phát hiện, đánh giá của Hoài Thanh về các nhà thơ trẻ, mà lúc ấy, theo ông là có nhiều triển vọng (Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật...), qua độ lắng thời gian, hết thảy đều không sai số. Cái “tạng” phê bình “lấy hồn ta để hiểu hồn người”, ấn tượng - trực cảm của Hoài Thanh là lợi thế làm cho những bài thơ đã hay lại càng hay và rất dễ “lây lan” sang người đọc. Ông không nghiên cứu sâu giọng điệu của nhà thơ trẻ nào nhưng trong các bài viết đều có phát hiện, khi đã phát hiện chất giọng của nhà thơ nào thì đích thực của nhà thơ đó, không lẫn với ai được (ông thường dùng “hơi thơ”, “tiếng thơ”, “giọng thơ” thay “giọng điệu”).
Chẳng hạn, năm 1968, trên Tạp chí Văn học số 9 và số 10, Hoài Thanh viết liền hai bài về nhà thơ trẻ Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân. Bài thứ nhất “Tiếng gà gáy của Ca Lê Hiến hay tâm sự của người thanh niên miền Nam tập kết”, ông phát hiện ra “Tiếng nói của một con người dễ cảm xúc, hay suy nghĩ” [158, tr.1212], “lời thơ, nhạc thơ của anh nhiều chỗ độc đáo nhưng nói chung vẫn bình dị và tự nhiên, đằm thắm và ngọt ngào” [158, tr.1214]. Bài viết thứ hai “Thơ Lê Anh Xuân hay tấm lòng của người thanh niên trên tiền tuyến lớn”, Hoài Thanh giới thiệu sáng tác của Lê Anh Xuân kể từ khi nhà thơ trở về quê hương chiến đấu. Ông chỉ rõ: “Câu thơ của Lê Anh Xuân vẫn dịu hiền và có khi nhỏ nhẹ nữa… Có thể nói Lê Anh Xuân đã đạt tới cái nhìn anh hùng ca và tìm đúng cái giọng anh hùng ca (NBL nhấn mạnh)” [158, tr.1233].
Hay, trên báo Văn nghệ số 340 ra ngày 17/4/1970, trong bài “Một vài cảm tưởng nhân cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ”, Hoài Thanh nhận định khá sớm về Phạm Tiến Duật: “Tứ thơ của anh độc đáo, phong phú, táo bạo, đúng là tứ thơ của người trong cuộc... Nếu anh giữ được cho nó luôn bình dị, trong sáng thì chắc chắn tiếng thơ của anh sẽ là tiếng thơ quý”. Đối với Lưu Quang Vũ, đọc những sáng tác đăng trên các báo Văn nghệ quân đội, Nhân dân, Văn nghệ, trong năm 1966, Hoài Thanh đặt tiêu đề bài viết Một cây bút trẻ nhiều triển vọng, thay lời khẳng định. Ông nhận thấy: “Thơ Lưu Quang Vũ rất dồi dào màu sắc và cũng rất thính về các mùi
hương”, “Cảm xúc suy nghĩ của anh thường nhuần nhị. Ý thơ có khi mượn chỗ này chỗ nọ nhưng giọng thơ thì đúng là giọng của anh (NBL nhấn mạnh)” [154, tr.46]. Đến với thơ Nguyễn Duy từ thuở ban đầu, Hoài Thanh chỉ rõ điểm mạnh điểm yếu, nhận ra chất giọng riêng, nhiều hứa hẹn: “Câu thơ của Nguyễn Duy nhiều khi còn khắc khổ, thậm chí còn cầu kì và rắc rối nữa... Nhưng một số bài của anh đậm đà phong cách Việt Nam. Giọng thơ chân chất. Tình thơ chắc. Ý thơ sâu” [155, tr.4].
Viết về bốn cây bút tiêu biểu thuộc thơ trẻ thời chống Mỹ, nhà phê bình văn học hàng đầu ở nước ta đã bắt rất đúng “mạch chủ” trong nguồn thơ của họ. Chúng tôi coi những bài viết như thế là đi tìm những hạt ngọc thơ ca đang nảy sinh từ cuộc sống tươi xanh của những tâm hồn tươi trẻ, góp phần làm nên dáng nên hình của một thế hệ nhà thơ. Trong những bài nghiên cứu trên, để ý, chúng tôi thấy Hoài Thanh không trực tiếp nói đến “cảm hứng”. Có lẽ, theo tác giả, thẩm định tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ thể hiện trong thi phẩm cũng là đủ (và không ra ngoài cảm hứng). Văn phê bình của Hoài Thanh là vậy. Một người rất uyên bác nhưng ông lại né tránh kiểu viết tầm chương trích cú, lí luận dông dài. Nói chuyện bình thơ, ông tâm sự: “Phân tích giọng thơ, hơi thơ, nhạc thơ hay phân tích gì thì rốt cuộc cũng là nhằm đưa người ta đi sâu vào tình cảm tư tưởng trong thơ” [159, tr.32].
Cùng Hoài Thanh, Xuân Diệu cũng tỏ ra rất chú ý phát hiện, bồi dưỡng và giới thiệu tài năng các cây bút trẻ. Những Nguyễn Xuân Thâm, Hoàng Cát, Trần Đăng Khoa,... là những nhà thơ được ông quan tâm đặc biệt. Nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm (bút danh Dao Ca, Đỗ Hữu) cho biết: “Anh Xuân Diệu dạy cho tôi nhiều nhất. Anh chữa cho từng chữ. Thậm chí có khi bài thơ của tôi được anh vẽ ra như một bức tranh” [184]. Tiếp đến, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Xuân Nam giới thiệu thơ Bằng Việt, Nguyễn Văn Hạnh thẩm bình Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật khi tập thơ mới được ấn hành. Các nhà lí luận phê bình uy tín đã rất chú ý đến ngôn ngữ, bút pháp, nhịp thơ... tức những vấn đề không tách rời cảm hứng và giọng điệu. Nguyễn Văn Hạnh viết: “Trong “Vầng trăng quầng lửa” có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện đại và bút pháp truyền thống, hình thức thơ có sự biến đổi phù hợp với nội dung. Nhà thơ tài hoa này không trói buộc mình trong những quy tắc cũ, câu thơ dài ngắn không đều, vần nhịp tư do những vẫn có sức lôi cuốn” [41, tr.7]. Định Nguyễn, trong
bài “Đọc thơ người ra trận” (báo Văn nghệ số 451 - 1972) đã phác thảo chất thơ, giọng thơ của Nguyễn Đức Mậu và Vương Trọng: “cả hai anh đều khỏe, chắc, mộc mạc, thô, đạm mà chân thành”. Trang Nghị trên báo Văn nghệ (số tháng 6 - 1972) có bài “Một tác giả trẻ trên chiến trường Trị - Thiên - Huế”. Trong bài viết, Trang Nghị nhận diện thơ Nguyễn Khoa Điềm, khi nhà thơ này mới có tập Đất ngoại ô ra mắt bạn đọc: “Nguyễn Khoa Điềm chưa phải đã có nhiều bài thơ hay, nhưng đáng chú ý ở anh là một giọng nói mới (NBL nhấn mạnh)”. Trước đó, đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm mới được đăng trên báo, Vũ Quần Phương trong bài “Quá trình phát triển nội tâm trong một bài thơ”, (Văn nghệ tháng 11 - 1970) đã có lời bình “Thơ Nguyễn Khoa Điềm khỏe mà thấm”.
Các nhà thơ nữ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ,... mỗi người đều hình thành được chất giọng riêng của mình. Tuy vậy, ý kiến đánh giá từ các nhà phê bình chuyên nghiệp đăng trên các tờ báo lớn lúc bấy giờ thì lại không nhiều, phải sau 1975 thơ họ (nhất là Xuân Quỳnh) mới được nhiều người tập trung nghiên cứu. Nói không nhiều nhưng không phải không có người viết. Chẳng hạn, Hoàng Trung Thông nhận xét: “Xuân Quỳnh sau Chồi biếc với những vần thơ tươi mát đã mở rộng hồn thơ của mình ra cuộc sống nhiều mặt. Tập thơ Hoa dọc chiến hào mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế” [177, tr.64]; “Phan Thị Thanh Nhàn từ những bài thơ nhẹ nhàng thầm thì đã chuyển sang viết khá nhuần nhuyễn về một xóm đê hay một khu phố, về cuộc sống cần lao của quần chúng mà vẫn giữ được giọng riêng của mình” [177, tr. 62].
Riêng Lý Phương Liên là hiện tượng đặc biệt. Nữ công nhân trẻ này làm thơ và sáng danh trên thi đàn vào đầu thập niên 70 như một sự tình cờ. Khởi đầu là chùm bài đăng trên báo Nhân dân (số ra ngày 28-8-1970): Ca bình minh, Em mơ có một phiên tòa, Thư gửi một người bạn gái Mỹ và một số sáng tác khác đăng ở các báo Văn nghệ, Hà Nội mới, Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Tiền phong, Lao động,… gây được sự chú ý của nhiều nhà phê bình và sự hâm mộ của đông đảo bạn đọc: “Thơ Lý Phương Liên đến thẳng với trái tim người đọc bằng hình ảnh xúc động, bằng cách nói trực tiếp và không kém phần sâu sắc”, “đôi lúc Lý Phương Liên đã nói được những vấn đề lớn của dân tộc” [177, tr.67]. Tuy nhiên, cách không bao lâu, Lý Phương Liên lại nổi
danh (theo cách đánh giá hiện nay) với bài Nghĩ về Thúy Kiều (sau đổi thành Trò chuyện với Thúy Kiều) đăng trên báo Văn Nghệ số ra ngày 28-8-1970. Đây là bài thơ, có thể nói, cảm hứng thế sự thể hiện khá rõ (rất hiếm hoi trên thi đàn khi ấy). Và dĩ nhiên, bài thơ bị phê phán gay gắt: “Bài thơ rõ ràng xa lạ với cuộc chiến đấu anh hùng, luẩn quẩn trong những triết lí mơ hồ đồng thời biểu hiện một quan niệm sống yếu đuối, lạc lõng” [195, tr.164]; mãi đến những năm sát đổi mới, có nhà phê bình, trong công trình nghiên cứu của mình vẫn đánh giá gay gắt như thế, dù rằng Lý Phương Liên từ bỏ thơ đã chục năm ngoài.
Tuy gặp nhiều sóng gió do hoàn cảnh lịch sử nhưng Lý Phương Liên là cây bút có hình có nét trong thơ trẻ thời chống Mỹ: “những bài thơ hay của Lý Phương Liên mang bản sắc riêng, khá cụ thể, khá sinh động, không trộn lẫn với những người khác” [177, tr.67]. Nữ nhà thơ này để lại một số dấu ấn khá đậm: biên độ cảm hứng được mở ra, tính nhân văn khá rõ (Thư gửi một người bạn gái Mỹ, Em mơ có một phiên tòa), giọng thơ trong trẻo, hồn nhiên mà nhiều trăn trở (Ca bình minh, Trò chuyện với Thúy Kiều). Chúng tôi nghĩ, sáng tác của Lý Phương Liên cần được khảo sát, nghiên cứu như những nhà thơ khác cùng thế hệ (lâu nay trong các luận án, luận văn liên quan đến thơ chống Mỹ hầu như không ai đề cập đến).
Xét theo hướng nghiên cứu, đánh giá tổng thể dòng thơ trẻ thời chống Mỹ, chúng tôi nghĩ, Chế Lan Viên là người khai mở đầu tiên. Trong tiểu luận “Đốt cháy hơn nữa ngọn lửa trong thơ bạn trẻ” (Lời tựa tập thơ Sức mới - 1965) ông đã sớm nhận ra “Điều đáng yêu của tập thơ này là nó nồng ấm cái hơi thở của cuộc sống” [193, tr.424]. Và cũng theo Chế Lan Viên, sự “nồng ấm cái hơi thở của cuộc sống” chính là thế mạnh của thơ trẻ: “Họ có cái này ghê gớm lắm: cái con mắt trẻ để nhìn đời, nhìn cái cụ thể của đời” [193, tr.488]. Cả một đội ngũ nhà thơ được hợp lại từ nhiều nguồn, nhiều lĩnh vực, nhiều tầng lớp. Theo Chế Lan Viên, nhãn quan cuộc sống của lớp nhà thơ trẻ rất phong phú, nguồn cảm hứng của họ dồi dào: “Các bạn trẻ này phần đông là công nhân bộ đội, cán bộ. Họ ở trong nhiều ngành nghề địa phương khác nhau, đứng từ nhiều góc độ khác nhau để nhìn cuộc sống. Do đó gộp tất cả cái nhìn riêng của họ lại, ta có một số thành không đơn điệu, một cái nhìn chung khá phong phú về cuộc đời” [193, tr.425]. Phác thảo về một đội ngũ nhà thơ đang sinh
thành qua một tuyển tập (lọc trong hơn 1500 bài thơ), những cây bút sáng danh đều được Chế Lan Viên nhận xét và bước đầu chỉ ra dấu ấn riêng, tỏ ý tin vào triển vọng phát triển của họ: Xuân Quỳnh, Thái Giang, Bằng Việt, Nguyễn Mỹ, Vũ Quần Phương, Phạm Ngọc Cảnh, Trúc Thông, Nguyễn Vũ Tiềm, Phạm Tiến Duật (cho rằng, trong Lời tựa tập Sức mới, Chế Lan Viên chưa nhắc đến Phạm Tiến Duật là không đúng). Trong diễn trình vận động, đội ngũ nhà thơ trẻ liên tục được bổ sung những cây bút xuất sắc (Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Vương Trọng, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ Dạ,...); và giọng thơ của thế hệ họ cũng dần dần định hình: đa dạng mà thống nhất, phân biệt với giọng thơ của thế hệ trước họ (ở đây Chế Lan Viên chưa bàn đến vấn đề này).
Đến tiểu luận “Thơ đánh Mỹ cứu nước” (Tựa tuyển tập Thơ ba năm chống Mỹ 1965 - 1967), Chế Lan Viên nhận thấy sự lớn mạnh nhanh chóng đội ngũ nhà thơ trẻ: “Cái làm cho tuyển tập thơ này khác với các tuyển tập trước, là tiếng nói ríu rít (NBL nhấn mạnh) của đông đảo những cây bút trẻ. Họ chiếm một phần ba tuyển tập” [193, tr.487]. Và tiếp tục khẳng định ưu thế của họ: “ta có một đội ngũ trẻ có mặt ở khắp nơi để đón bắt cuộc sống mới khi nó xuất hiện. Nhờ thế hình ảnh của cuộc sống ở đây là một hình ảnh chẳng đơn điệu nghèo nàn” [193, tr.490]. Không chỉ thấy được sự năng nổ, xông xáo của đội ngũ nhà thơ trẻ trong việc nắm bắt, đưa hiện thực cuộc sống vào thơ, mở rộng nguồn cảm hứng cho thơ, Chế Lan Viên còn khẳng định tài năng của họ ở phương diện “kỹ thuật” (tức các thủ pháp nghệ thuật): “Không phải lớp trẻ chỉ có tâm hồn, họ còn nắm vững kỹ thuật” [193, tr.489].
Từ giữa những năm sáu mươi của thế kỷ trước, khi thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ mới hình thành mà Chế Lan Viên đã có những nhận xét như trên, chúng tôi nghĩ, không chỉ có tác dụng “truyền nghề” mà còn thể hiện sự bao quát về một thế hệ nhà thơ đầy triển vọng. Có điều cũng đáng lưu ý là, sau chiến tranh, khi thơ trẻ thời chống Mỹ đã đi hết chặng đường vẻ vang của nó, nhìn lại thế hệ hệ nhà thơ ấy (so sánh với thơ trẻ thời hậu chiến), trả lời câu hỏi của Phạm Tiến Duật, Chế Lan Viên nhận xét: “Ngày trước các cậu bắn đạn thơ có viên nổ viên xịt nhưng cộng lại là trúng đích. Bây giờ đạn của chúng nó tốt đấy, viên nào cũng nổ nhưng bắn thăng thiên, thăng
địa, tán loạn” [23, tr.76]. Đấy là lời đánh giá bằng hình ảnh, dí dỏm nhưng không phải không đúng.
Sau Chế Lan Viên, khi cuộc chiến cận kề kết thúc, những Hoàng Trung Thông, Bùi Công Hùng, Nguyễn Văn Long, Bằng Việt đều có bài viết về thơ trẻ thời chống Mỹ theo hướng nghiên cứu tổng thể. Trong các bài viết ấy, mức độ này mức độ khác, vấn đề cảm hứng và giọng điệu đã được đề cập, những đóng góp của thơ trẻ được chú ý. Chẳng hạn, trong “Một vài suy nghĩ về dòng thơ trẻ trên miền Bắc hiện nay”, Hoàng Trung Thông viết: “Họ đến với đội ngũ thơ, ríu rít, hồn nhiên, chân thực, nhưng sớm ý thức phải có một tiếng nói riêng (NBL nhấn mạnh) trong tiếng nói chung hùng tráng của dân tộc đang đánh thắng giặc Mỹ” [177, tr.62]; “Các bạn làm thơ trẻ của chúng ta ngày càng muốn tự khẳng định mình và đem nhiều cách nói, cách diễn tả vào phong trào thơ. Chúng ta tin ở tài năng của anh chị em đó và chúng ta hiểu rằng họ có nhiều đóng góp đáng khuyến khích cho thơ ca” [177, tr.66]. Nghiên cứu tổng thể dòng thơ trẻ, Hoàng Trung Thông không quên chỉ ra một số “thần thái” riêng của từng cây bút tiêu biểu: Bằng Việt “nghiêng về suy nghĩ trong giọng thơ bình thản có phần đơn điệu”, Vũ Quần Phương “trăn trở tìm tòi, nhiều lúc khá tinh tế mà như chưa vượt qua được những cuộc sống hạn chế quanh mình”, Lưu Quang Vũ “chắt chiu những kỷ niệm, có trau chuốt màu mè mà thiếu sự nóng hổi của cuộc sống”, Ngô Văn Phú “rung động về con người và cảnh sống của nông thôn, ngày càng sâu hơn, giàu có hơn, nhưng chưa tạo được nét riêng thật độc đáo”, Phạm Ngọc Cảnh “chân chất, khỏe”, Nguyễn Đức Mậu “đã có chiều sâu, có sức khái quát cao”,... Riêng Phạm Tiến Duật, cũng như các nhà phê bình khác, Hoàng Trung Thông nhận xét: “Thơ anh lấy từ cuộc sống thực, có khi trần trụi, nhưng không dừng lại ở phản ánh đơn sơ mà được nâng lên bằng trí tưởng tượng và suy nghĩ độc đáo... Anh phóng túng mà đã bắt đầu có bản sắc riêng” [177, tr.63]. Tuy nhiên, cái giọng “nói chơi, nghịch ngợm, hơi ngang” trong thơ Phạm Tiến Duật, nếu nhà phê bình khác cho là độc đáo thì ngược lại, Hoàng Trung Thông cho đấy là nhược điểm: “Vui là một đức tính của tuổi trẻ, nhưng đi đến bỡn cợt thì không nên... Một số bài thơ gần đây của anh cũng rơi vào những nhược điểm đó, mà có phần còn nặng hơn” [177, tr.64]. Theo chúng tôi, lời cảnh báo của Hoàng Trung Thông không phải không có cơ sở. Thực tế