Thế chấp tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng tại Việt Nam - 2

Để có thể hạn chế được tối đa những rủi ro tiềm ẩn trong các giao dịch bảo đảm nói chung và giao dịch thế chấp tài sản nói riêng, cần khắc phục những nguyên nhân dẫn đến những rủi ro này, một trong số đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng.

Đối với các giao dịch bảo đảm tiền vay, hiện tại có rất nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp, gián tiếp như: Pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm, pháp luật đất đai, nhà ở,… Về cơ bản các văn bản này đã điều chỉnh tương đối đầy đủ các vấn đề liên quan, tuy nhiên quá trình áp dụng thực tế tại các tổ chức tín dụng đã bộc lộ không ít điểm bất cập như: Chưa có sự thống nhất và phù hợp giữa các quy định tại các văn bản luật khác nhau, thiếu sự thống nhất trong cách hiểu và vận dụng luật từ phía các cá nhân, tổ chức thực thi như tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất, tổ chức bán đấu giá đã dẫn đến tình trạng khó khăn của các tổ chức tín dụng khi xử lý tài sản bảo đảm.

Trong các loại hình giao dịch bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng thì giao dịch thế chấp tài sản là phổ biến nhất và có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng. Chính vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu về các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng liên quan đến thế chấp tài sản tại tổ chức tín dụng là cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn, nhất là trong bối cảnh kinh tế suy thoái như hiện nay, ngành Ngân hàng sau một thời gian tăng trưởng nhanh đã bộc lộ những kẽ hở về mặt quy chế, quy trình nội bộ và đã có rất nhiều vụ tranh chấp, khởi kiện giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, thậm chí đã có rất nhiều các cán bộ tín dụng đã rơi vào vòng pháp lý cũng chỉ vì những rủi ro này.

1.2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở tìm hiểu một cách sâu sắc và cập nhật các quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng nói chung và giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng nói riêng cũng như quá trình tìm hiểu thực tế tại các tổ chức tín dụng, luận văn hướng tới nghiên cứu một cách toàn diện về các quy định của pháp luật, những rủi ro tiềm ẩn trong các giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay, phân tích đánh giá nguyên nhân dẫn đến những rủi ro này để đưa ra được giải pháp hoàn thiện nhằm hạn chế tối đa những rủi ro. Cụ thể như sau:

- Phân tích làm rõ vai trò của giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng;

- Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng;

- Những rủi ro tiềm ẩn từ các quy định pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng và những nguyên nhân dẫn đến rủi ro này, từ đó đề ra các giải pháp khắc phục.

1.2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Việc nghiên cứu được thực hiện từ chính hoạt động tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại Cổ phần và các Công ty tài chính với những số liệu thống kê từ năm 2010 đến nay để phân tích, làm rõ vai trò của giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay cũng như thực trạng pháp luật thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng.

1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Thế chấp tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng tại Việt Nam - 2

Hiện tại đã có rất nhiều bài viết của các tác giả về các rủi ro trong các giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng nhưng đa phần các bài viết đó chỉ đề cập đến một khía cạnh nhất định trong loại giao dịch này. Do vậy, các tác giả mới chỉ đưa ra các bất cập và giải pháp hoàn thiện từ một góc độ cụ thể như: Với một loại tài sản thế chấp hay một chủ thể

nhất định nào đó,…mà chưa tổng hợp, phân tích đầy đủ các vấn đề liên quan để đưa ra giải pháp tổng thể. Ví dụ như:

- Nguyễn Thị Nga (2009), Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học;

- Phan Hồng Điệp (2012), Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong các tổ chức tín dụng - Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội;

- Phùng Văn Hiếu (2012), Thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình

- Thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại quốc tế Việt Nam - Đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Xuất phát từ việc nghiên cứu thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng, nghiệp vụ cấp tín dụng tại một số Ngân hàng Thương mại Cổ phần, Công ty Tài chính, Tổ chức tài chính vi mô,... luận văn đã nêu lên được những điểm cốt lõi mà các cán bộ tín dụng cần quan tâm, các vấn đề pháp lý về thế chấp tài sản bảo đảm mà họ thường xuyên gặp phải. Trên cơ sở đó phân tích thấu đáo sự cần thiết phải đưa ra và thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thế chấp tài sản tại các tổ chức tín dụng nhằm hạn chế tối đa những rủi ro pháp lý tiềm ẩn trong các giao dịch này.

2. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam, bình luận những điểm phù hợp và chưa phù hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp tổng hợp quy định pháp luật, thống kê thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật về thế chấp tài sản tại các tổ chức tín dụng để đánh giá khái quát, chỉ ra những rủi ro mà tổ chức tín dụng có thể gặp phải khi thực hiện các giao dịch này.

3. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm ba chương như sau:

Chương 1: Tổng quan về giao dịch bảo đảm và thế chấp tài sản.

Chương này tác giả trình bày khái quát về khái niệm, đặc điểm của giao dịch bảo đảm và tài sản bảo đảm nói chung và thế chấp tài sản nói riêng; lịch sử hình thành và phát triển pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm; vai trò của giao dịch bảo đảm tiền vay đối với hoạt động tín dụng tại các tổ chức tín dụng.

Chương 2: Quy định của pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng tại Việt Nam.

Chương này tác giả nêu và phân tích làm rõ các quy định của pháp luật về thế chấp tài sản như vấn đề hiệu lực của các giao dịch này, việc thực hiện giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm cũng như vấn đề xử lý tài sản thế chấp. Đồng thời, khái quát về hoạt động của tổ chức tín dụng và vai trò của thế chấp tài sản đối với hoạt động của tổ chức tín dụng.

Chương 3: Pháp luật về thế chấp tài sản của Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện.

Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm và thực tiễn áp dụng trong hoạt động cấp tín dụng, tác giả phân tích những điểm bất cập của pháp luật là nguyên nhân chính dẫn đến những rủi ro pháp lý tiềm ẩn trong giao dịch thế chấp tài sản tại tổ chức tín dụng và đề ra giải pháp hoàn thiện.

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM VÀ THẾ CHẤP TÀI SẢN


1.1. Khái niệm, đặc điểm của giao dịch bảo đảm tiền vay

1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm tiền vay

Giao dịch bảo đảm là một loại giao dịch quan trọng và đã tồn tại từ lâu trong hệ thống pháp luật các nước trên thế giới. Tuy nhiên các hệ thống pháp luật lại có quan niệm khác nhau về giao dịch bảo đảm. Điển hình là sự khác nhau cơ bản giữa hệ thống pháp luật Civil Law và hệ thống pháp luật Common Law. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả, thì các nước trong hệ thống pháp luật Civil Law theo xu hướng hình thức: Chú trọng tới việc phân chia giữa các hình thức bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh... và quy định về từng hình thức bảo đảm mà thường không đưa ra một khái niệm chung về giao dịch bảo đảm. Do vậy, pháp luật của các nước này thường liệt kê các biện pháp bảo đảm nên khái niệm khá hẹp, thường chỉ bao gồm các bảo đảm mang tính chất truyền thống như cầm cố, thế chấp, ký quỹ, bảo lãnh.

Đối với các nước theo hệ thống pháp luật Common Law lại theo xu hướng chức năng: Dựa trên “lợi ích bảo đảm” và coi như là nguồn gốc của mọi giao dịch. Khái niệm giao dịch bảo đảm được hiểu là toàn bộ các giao dịch, không phụ thuộc vào hình thức và tên gọi, có mục đích tạo lập lợi ích bảo đảm. Chính vì vậy, bên cạnh các biện pháp bảo đảm truyền thống như cầm cố, thế chấp,... pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia này còn được áp dụng với các giao dịch khác có tính chất bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ như thuê mua tài chính; gửi bán thương mại; chuyển giao nợ, cho thuê tài sản dài hạn, bán có bảo lưu quyền sở hữu; mua trả chậm, trả dần; chuyển nhượng quyền đòi nợ; quyền cầm giữ… Điều

này cũng đồng nghĩa, loại hình giao dịch bảo đảm với tư cách là đối tượng của hoạt động đăng ký theo quy định của pháp luật các nước này không bị “bó hẹp” trong khái niệm giao dịch bảo đảm [37].

Theo pháp luật Việt Nam, cụ thể là khoản 1, Điều 318 về “Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng có quy định:

Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm:

a) Cầm cố tài sản;

b) Thế chấp tài sản;

c) Đặt cọc;

d) Ký cược; đ) Ký quỹ;

e) Bảo lãnh;

g) Tín chấp. [26, khoản 1, Điều 318].

Và khoản 1, Điều 323 về “Đăng ký giao dịch bảo đảm”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này.”[26, khoản 1, Điều 323].

Có thể thấy rằng, Bộ luật Dân sự năm 2005 không đưa ra những đặc điểm cơ bản của giao dịch bảo đảm giống như hệ thống pháp luật Common Law mà mà chỉ liệt kê những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự tương tự như hệ thống pháp luật Civil Law.

Trước đây, theo quy định tại khoản 1, Điều 2 về “Giải thích từ ngữ”, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP “Về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng”, thì: “1. Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay”. Kể từ thời điểm Nghị định số

163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm được ban hành đã thay thế Nghị định số 178/1999/NĐ-CP Về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, các văn bản liên quan và thống nhất hóa các quy định về giao dịch bảo đảm. Nhưng Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm cũng không đưa ra một định nghĩa cụ thể về biện pháp bảo đảm, mà chỉ cụ thể hóa Điều 318 về “Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” trong Bộ luật Dân sự năm 2005 bằng cách liệt kê các biện pháp bảo đảm.

Tuy nhiên, dựa trên cách tiếp cận theo chức năng của các biện pháp bảo đảm tiền vay, có thể đưa ra định nghĩa về giao dịch bảo đảm tiền vay như sau: “Giao dịch bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận giữa Bên cho vay và Bên vay theo các quy định của pháp luật, theo đó Bên cho vay nhận quyền đối với tài sản của Bên vay hoặc Bên thứ ba nhằm bảo đảm việc trả nợ của Bên vay, ngăn ngừa rủi ro, tạo dựng cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay”.

1.1.2.Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm tiền vay

1.1.2.1. Trước ngày 01/01/2006, thời điểm có hiệu lực của Bộ luật Dân sự năm 2005

Trước khi có Bộ luật Dân sự năm 1995, Nghị định số 17-HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng “Quy định chi tiết pháp lệnh Hợp đồng kinh tế” mới liệt kê và định nghĩa về các biện pháp bảo đảm bao gồm thế chấp, cầm cố và bảo lãnh. Bộ luật Dân sự năm 1995 chính thức có hiệu lực ngày 01/07/1996 là bước tiến quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về giao dịch bảo đảm, tạo hành lang pháp lý cho loại giao dịch này. Sau đó, các văn bản pháp luật về giao dịch bảo đảm, bảo đảm tiền vay, đăng ký giao dịch bảo đảm được ban hành để điều chỉnh hoạt động của các cá nhân, tổ chức liên quan, một số văn bản điều chỉnh trực tiếp như:

- Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ Về giao dịch bảo đảm;

- Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/2009 của Chính phủ Về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng;

- Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/03/2000 của Chính phủ Về đăng ký giao dịch bảo đảm.

Trong thực tiễn áp dụng, các quy định này đã bộc lộ những điểm hạn chế như: Việc tồn tại song song hai quy chế về giao dịch bảo đảm áp dụng với các chủ nợ nói chung và đối với các tổ chức tín dụng nói riêng theo Nghị định số 165/1999/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 178/1999/NĐ-CP Về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng gây khó khăn cho các thủ thể khi lựa chọn pháp luật áp dụng; các hạn chế đối với tổ chức tín dụng khi nhận tài sản bảo đảm là động sản, hàng lưu kho, tài sản hình thành tương lai; quyền tự do thỏa thuận của các bên trong giao dịch chưa thực sự được tôn trọng; thứ tự ưu tiên thanh toán không rõ ràng,...

1.1.2.2. Kể từ thời điểm có hiệu lực của Bộ luật Dân sự năm 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005 được ban hành nhằm khắc phục phần nào những bất cập của Bộ luật Dân sự năm 1995, cũng như các văn bản pháp luật về giao dịch bảo đảm và hoàn thiện hơn pháp luật về giao dịch bảo đảm.

Cho đến thời điểm hiện tại, các văn bản pháp luật về giao dịch bảo đảm đã được ban hành mới như Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ Về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/07/2010 của Chính phủ Về đăng ký giao dịch bảo đảm và các văn bản sửa đổi, bổ sung các quy định này.

Các văn bản này đã giải quyết phần nào những khúc mắc của các Bên nhận tài sản bảo đảm nói chung và các tổ chức tín dụng nói riêng với các quy định tiến bộ về trình tự, thủ tục thiết lập bảo đảm; quyền tự do thỏa thuận cho

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/11/2023