- Các khoản thuế mà doanh nghiệp phải thanh toán;
- Các yêu cầu trong phá sản.
Trong trường hợp tài sản không đủ để đáp ứng theo yêu cầu thanh toán theo trật tự ưu tiên thì sẽ được phân chia theo tỷ lệ.
Có thể thấy pháp luật phá sản của đa số các quốc gia đều quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán nợ từ tài sản phá sản của con nợ: Các khoản chi phí trong quá trình giải quyết phá sản được ưu tiên thanh toán trước; các chủ nợ ưu tiên khác là các cá nhân, tổ chức được hưởng các chi phí giải quyết phá sản như thuế, người lao động và chi phí khác; các chủ nợ: bao gồm chủ nợ có đảm bảo ưu tiên thanh toán trước các chủ nợ không có đảm bảo theo nguyên tắc: các chủ nợ có đảm bảo được thanh toán đầy đủ khoản tiền nợ mà con nợ chưa thanh toán, nếu giá trị tài sản đảm bảo đó không đủ để chi trả hết thì phần thiếu này sẽ được chuyển thành các khoản nợ không có bảo đảm và các chủ nợ có bảo đảm đó được chia như các chủ nợ không có bảo đảm; nếu giá trị này vượt quá số nợ có bảo đảm thì phần chênh lệch sẽ chuyển vào khối tài sản phá sản của con nợ. Các chủ nợ không có bảo đảm được thanh toán theo tỷ lệ. Ngoài ra còn có các chủ nợ được trả chậm như người cho vay có thứ tự thanh toán sau cùng trong một hợp đồng vay hợp vốn; các cổ đông của công ty cổ phần bị phá sản.
Pháp luật phá sản của Việt Nam, mặc dù đã bãi bỏ sự ưu tiên thanh toán cho khoản nợ thuế là hợp lý vì điều đó góp phần bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ nợ là nhà nước và các chủ nợ khác. Tuy nhiên, để khuyến khích chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, pháp luật phá sản của Việt Nam cần ưu tiên thanh toán các chi phí mà chủ nợ bỏ ra khi tham gia vào thủ tục phá sản. Kinh nghiệm rút ra từ quy định tại Điều 39 Luật Phá sản Đức thì tiền thu được từ bán tài sản phá sản được phân chia theo thứ tự ưu tiên, trong đó, chi phí của chủ nợ phá sản phát sinh từ việc tham gia vào thủ tục phá sản được ưu tiên thanh toán trước các khoản nợ thông thường. Đối với chủ nợ
đứng đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Luật cần ưu tiên thanh toán trước khoản nợ này so với các chủ nợ thông thường khác. Nếu có sự ưu tiên thanh toán đối với các chủ nợ đứng đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và chủ nợ tham gia vào thủ tục phá sản thì sẽ khuyến khích các chủ nợ chọn phương án đòi nợ theo thủ tục phá sản chứ không chọn cách khởi kiện đòi nợ theo thủ tục dân sự. Theo kinh nghiệm quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ trong pháp luật một số nước nêu trên, pháp luật phá sản Việt Nam cần hoàn thiện quy định liên quan đến vấn đề này, cụ thể tài sản phá sản sẽ được phân chia theo thứ tự:
- Các chi phí liên quan đến việc tiến hành thủ tục phá sản;
- Các nghĩa vụ thanh toán đối với người lao động theo hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và pháp luật lao động hiện hành;
- Các chủ nợ không có bảo đảm trong danh sách chủ nợ:
+ Chủ nợ đứng đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
Có thể bạn quan tâm!
- Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Của Chủ Nợ Có Bảo Đảm
- Xử Lý Các Khoản Nợ Dân Sự Của Chủ Doanh Nghiệp Tư Nhân Và Thành Viên Hợp Danh Trong Công Ty Hợp Danh
- Xử Lý Quyền Sử Dụng Đất Của Doanh Nghiệp Phá Sản
- Thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam - 9
Xem toàn bộ 73 trang tài liệu này.
+ Các chủ nợ tham gia thủ tục phá sản;
+ Các chủ nợ còn lại;
- Các chủ sở hữu;
- Các khoản nợ khác.
Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.
3.2. GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ THỰC THI QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
3.2.1. Về cơ cấu tổ chức, hoạt động; năng lực và chuyên môn của chủ thể thực hiện thủ tục thanh lý tài sản phá sản
Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong trình tự giải quyết phá sản có hai thủ tục cơ bản là thủ tục phục hồi doanh nghiệp và thủ tục thanh lý doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đã chọn hình thức “thanh lý” thì có nghĩa là họ đã
suy nghĩ tìm mọi cách nhưng không còn khả năng níu kéo được nữa. Để đảm bảo cho các quy định về thủ tục thanh lý tài sản phá sản được thực thi trên thực tế và đạt hiệu quả, pháp luật về phá sản cần quy định chặt chẽ về thiết chế thực thi thủ tục này: từ việc tổ chức bộ máy của Tổ quản lý, thanh lý tài sản; điều kiện vật chất đến năng lực và trình độ chuyên môn của các cán bộ; đồng thời có các chế tài xử lý thích đáng đối với những hành vi vi phạm trong quá trình thực thi thủ tục thanh lý tài sản phá sản. Theo quy định của pháp luật về phá sản, Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết các vụ phá sản và Cơ quan thi hành án dân sự phải cử Chấp hành viên là Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này được quy định cụ thể tại các điều 9, 10 và 11 Luật Phá sản năm 2004; Điều 20 và từ Điều 22 đến Điều 33 của Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Theo các quy định này thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản có hai nhiệm vụ chính, đồng thời cũng là hai nội dung cơ bản và bao trùm của toàn bộ quá trình tiến hành thủ tục phá sản:
- Quản lý, kiểm kê và tổng hợp tình hình tài chính, tài sản của doanh nghiệp; thi hành các quyết định của Thẩm phán, thanh lý tài sản của doanh nghiệp và xử lý các tình huống phát sinh từ việc quản lý, thanh lý tài sản;
- Lập danh sách chủ nợ.
Như vậy, vai trò của Chấp hành viên với tư cách là Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản là đặc biệt quan trọng trong suốt quá trình thực hiện một vụ phá sản. Chỉ khi nào có được danh sách chủ nợ và bản kê tổng hợp tài sản doanh nghiệp thì Thẩm phán mới có thể tiến hành triệu tập Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất để thông qua phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chuyển sang thủ tục thanh lý tài sản. Do đó, tiến độ và chất lượng giải quyết các vụ phá sản phụ thuộc rất nhiều vào kết quả thực hiện nhiệm vụ của Tổ quản lý, thanh lý tài sản do Chấp hành viên làm tổ trưởng.
Trên thực tế, việc kiểm kê, quản lý và thanh lý tài sản là rất phức tạp, đòi hỏi Chấp hành viên phải có kỹ năng nghề nghiệp và đầu tư nhiều công sức, thời gian để thực hiện. Đây là yêu cầu tương đối cao vì đa số các Chấp hành viên chưa nắm được kỹ năng thực hiện các thủ tục phá sản, cũng chưa có một lớp tập huấn nào tập huấn chuyên sâu cho Chấp hành viên về các kỹ năng này. Các thủ tục phá sản thực chất là các thủ tục tư pháp, có nhiều điểm tương tự các thủ tục tố tụng như làm việc với các chủ nợ, con nợ để đối chiếu các khoản nợ, thủ tục đòi nợ, trưng cầu giám định, kiểm toán, định giá, nghiên cứu hồ sơ tài chính của doanh nghiệp v.v..., nhưng Chấp hành viên do chức trách nghề nghiệp là thi hành án nên hầu hết không có kinh nghiệm thực hiện các thủ tục như Thẩm phán, do đó còn lúng túng khi thực hiện các thủ tục trên. Ngoài ra, Chấp hành viên còn có nhiệm vụ thường xuyên là thi hành các bản án, quyết định của Tòa án với khối lượng công việc là rất lớn nên thời gian đầu tư cho công tác giải quyết vụ việc phá sản còn hạn chế.
Từ đó cho thấy, tổ chức của Tổ quản lý, thanh lý tài sản hiện nay là chưa được chuyên nghiệp hóa và hoạt động chưa thực sự hiệu quả so với yêu cầu của pháp luật. Tại Điều 9 Luật Phá sản năm 2004 có ấn định thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản chỉ gồm một Chấp hành viên và một thư ký Tòa án. Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, các doanh nghiệp không những lớn về quy mô sản xuất mà cả tài sản cũng như thị phần. Với những vụ việc phá sản lớn, phức tạp thì liệu một Chấp hành viên có đủ khả năng để thực hiện vai trò của một người Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản? Cần phải có quy định mở cho việc tham gia của các thành phần này. Điều này là cần thiết để có thể đáp ứng đủ yếu tố về lượng trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ khi hiện nay, trình độ của đội ngũ Chấp hành viên của nước ta còn rất nhiều bất cập, do đó, cần có quy chế cụ thể trong công tác tuyển chọn các Chấp hành viên có đạo đức nghề nghiệp và đủ năng lực tham gia các quyết định phá sản với tư
cách là Tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản. Thêm nữa là các quy định về ủy thác của cơ quan thi hành vụ phá sản cho các cơ quan khác nếu tài sản của doanh nghiệp phá sản nằm rải rác ở nhiều địa phương khác nhau. Cơ quan được ủy thác phải có trách nhiệm thực hiện nội dung được ủy thác và báo cáo lại cho cơ quan thi hành án đã ủy thác về kết quả thực hiện, tránh tình trạng phối hợp không đồng bộ, khiến vụ án phải kéo dài.
Việc công nhận các chuyên gia độc lập đảm nhận công việc quản lý và thanh toán nợ để tăng cường tính chuyên nghiệp, chính xác, nhanh chóng và hiệu quả trong quá trình xử lý tài sản phá sản là cần thiết để đảm bảo hiệu quả của thủ tục này. Hiện nay, nước ta đã có công ty mua bán nợ và các tài sản tồn đọng của doanh nghiệp nhà nước và một số công ty quản lý tài sản của ngân hàng thương mại. Để giúp việc tổ chức lại doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp, các công ty quản lý nợ cần có đại diện tham dự vào Hội nghị chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản. Quyền này sẽ chỉ thực hiện được một cách có hiệu quả khi các nhân viên của Công ty phải được đào tạo một cách có hệ thống về giải quyết phá sản. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, các chuyên gia của công ty quản lý nợ cũng cần có tư vấn quốc tế giúp đỡ và tương lai các công ty này cần được mở rộng phạm vi hoạt động thành các công ty quản lý tài sản tư nhân độc lập, có năng lực, với các chuyên gia được đào tạo cơ bản. Việc thuê chuyên gia là cần thiết vì họ tiến hành công việc một cách độc lập, khách quan, đồng thời lại có chuyên môn nghề nghiệp cao. Những người này thường là các chuyên gia về pháp luật, kế toán – tài chính, kinh doanh có am hiểu về thực tế ở các doanh nghiệp, mặt khác, điều này cũng tăng cường tính thống nhất trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Do đó, những việc họ tiến hành sẽ nhanh chóng, chính xác, hợp lý, bảo vệ và xử lý tốt tài sản của doanh nghiệp phá sản. Vì vậy, cần phải có kế hoạch đào tạo dài hạn những quản lý viên chuyên nghiệp, có nghiệp vụ quản lý tài sản để thay thế Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
3.2.2. Các biện pháp ngăn chặn và xử lý vi phạm trong quá trình tiến hành thủ tục thanh lý tài sản phá sản
Tình trạng con nợ lợi dụng thủ tục phá sản để rũ bỏ trách nhiệm trả nợ là điều rất có thể xảy ra. Pháp luật về phá sản quy định một số chế tài hạn chế tình trạng này. Với chủ doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì, cá nhân liên quan trong Ban lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước sẽ bị cấm đảm nhận vĩnh viễn các chức vụ quản lý; đối với doanh nghiệp dân doanh thì phải nghỉ kinh doanh trong vòng từ 1-3 năm (Điều 94 Luật Phá sản năm 2004). Cho dù những chế tài này sẽ không bị áp dụng trong trường hợp bất khả kháng, chúng vẫn có thể làm tê liệt khả năng chấp nhận rủi ro của các doanh nhân, đặc biệt là trong khu vực dân doanh. Kinh doanh là phải chấp nhận rủi ro. Thông thường, rủi ro càng cao thì lợi nhuận cũng càng cao. Chấp nhận rủi ro đồng nghĩa với việc chấp nhận khả năng bị phá sản. Trong trường hợp này, phá sản được sinh ra là để cung cấp sự kết thúc cho một cố gắng không may và tạo điều kiện cho một cố gắng mới có thể may mắn hơn được bắt đầu. Thật ra, việc một doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản trong nhiều trường hợp có thể nằm ngoài tầm kiểm soát của ban lãnh đạo, ví dụ: thị trường cho sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp không còn hoặc biến động bất thường của thị trường thế giới (đây là điều đang xảy ra ngày càng thường xuyên hơn)... Thậm chí, việc các doanh nghiệp cạnh tranh tỏ ra tài giỏi và may mắn hơn cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phá sản. Thắng thua trong một cuộc cạnh tranh là chuyện bình thường. Như vậy, việc áp dụng chế tài trong pháp luật về phá sản là điều cần được cân nhắc một cách thận trọng. Chế tài chỉ nên được áp dụng vì những hành vi có lỗi dẫn đến sự phá sản hơn là vì sự phá sản chung chung (đặc biệt là vì sự phá sản do rủi ro). Và những hành vi gì sẽ bị áp dụng chế tài cũng cần phải được qui định rõ trong luật. Một việc quan trọng không kém là thiết kế chế tài để ngăn cản hành vi mua bán, giao dịch
của ban lãnh đạo doanh nghiệp khi những người này đã biết rõ tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Đối với Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình áp dụng thủ tục thanh lý tài sản phá sản, Điều 32 Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp: “lập bảng kê không đúng tình hình thực tế; lập danh sách chủ nợ, người mắc nợ sai sự thật; không phát hiện và không đề nghị Thẩm phán ra quyết định thu hồi lại tài sản đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật Phá sản”. Quy định này khó khả thi nên có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Gần đây nhất, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/2009/NĐ-CP ngày 06/02/2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản đã cụ thể hóa các hành vi của các chủ thể tham gia vào thủ tục phá sản: bản thân doanh nghiệp, các chủ nợ, người lao động... với mức phạt cụ thể cho từng hành vi. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản thì cần phải có sự phân công, phân nhiệm về lề lối làm việc của các thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Xác định rõ trách nhiệm cá nhân của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản và các thành viên của Tổ khi thực hiện các quyết định của Tòa án. Hoạt động của Tổ trưởng có vị trí quan trọng, vì đây là người điều phối hoạt động, tổ chức thực hiện các quyết định của Thẩm phán và thực hiện thanh toán cho các chủ nợ. Xây dựng chế độ báo cáo của Tổ trưởng với Thẩm phán.
KẾT LUẬN
Phá sản là một trong những biện pháp để thúc đẩy lưu thông vốn, vì vậy, không nên coi phá sản là một thủ tục để chấm dứt hoạt động của một doanh nghiệp mà mục đích quan trọng là tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội tổ chức lại hoạt động kinh doanh. Trường hợp đã áp dụng mọi biện pháp mà doanh nghiệp vẫn không thể khắc phục được thì mới thực hiện việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp để chia cho các chủ nợ. Chỉ khi nào các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ sở hữu hoặc người quản lý doanh nghiệp, các chủ nợ, người lao động trong các doanh nghiệp nhận thức đúng đắn những vấn đề này và sử dụng Luật Phá sản như là một công cụ hữu hiệu để lành mạnh hóa tình hình tài chính doanh nghiệp, cứu vãn doanh nghiệp trong hoàn cảnh khó khăn, phục hồi doanh nghiệp trở lại hoạt động kinh doanh bình thường thì pháp luật phá sản mới thực sự phát huy được tác dụng của nó trong việc cơ cấu lại nền kinh tế. Luật Phá sản năm 2004 được ban hành nhằm mục đích ứng dụng cho các “sự cố” của nền kinh tế, nó không chỉ là Luật “khai tử” cho các doanh nghiệp yếu kém mà còn nhằm mục đích khôi phục lại sự cân bằng về cán cân thanh toán tài chính của thị trường. Pháp luật về phá sản của Việt Nam nói chung, các quy định liên quan đến thủ tục thanh lý tài sản phá sản nói riêng đã có nhiều những tiến bộ, khắc phục được những hạn chế để lại từ khi việc phá sản được luật hóa. Tuy nhiên, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, kết hợp với việc hội nhập vào sân chơi chung của các nền kinh tế thế giới (gia nhập tổ chức WTO) của Việt Nam đã và đang đòi hỏi sự hoàn thiện, sự đổi mới tương thích với pháp luật quốc tế nói chung. Từ những quy định về việc khai sinh các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước đến việc đưa ra giải pháp hiệu quả cho trường hợp sự cố rủi ro trong kinh doanh của các tổ chức này, tạo cơ hội rũ bỏ những cái gì thuộc về sự ỳ trệ, không hiệu quả, thay thế bằng một tư duy tiến bộ, thúc đẩy kinh tế