- Căn cứ vào biện pháp bảo đảm, có thể phân chia thành
Tín dụng có bảo đảm đầy đủ bằng tài sản: là các khoản tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ khách hàng được bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay hoặc bên thứ ba hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Loại hình tín dụng này giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, ngân hàng có toàn quyền xử lý tài sản để thu hồi nợ.
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: là các khoản tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng không được bảo đảm bằng tài sản cầm cố thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Ngân hàng cấp tín dụng hoàn toàn dựa trên đánh giá năng lực và uy tín của khách hàng. Loại hình tín dụng này khá rủi ro với ngân hàng, do đó chỉ thực hiện đối với những khách hàng mà ngân hàng đánh giá có uy tín, có đầy đủ năng lực.
* Qui trình tín dụng
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả công việc của ngân hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho đến khi quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng...
Một quy trình tín dụng căn bản gồm các bước: Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn
Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng. Nhìn chung một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như: năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng; khả năng sử dụng vốn vay; khả năng hoàn trả nợ vay (vốn vay + lãi)
Bước 2: Phân tích tín dụng
Có thể bạn quan tâm!
- Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội - 1
- Xử Lý Tổn Thất Khi Để Xảy Ra Rủi Ro Tín Dụng
- Kinh Nghiệm Về Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại Một Số Nước Trên Thế Giới Và Bài Học Kinh Nghiệm Đối Với Việt Nam
- Khái Quát Về Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam - Chi Nhánh Huyện Phúc Thọ, Thành Phố Hà Nội
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lại của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay + hoàn trả nợ vay. Mục tiêu là:
Tìm kiếm những tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, dự đoán khả năng khắc phục những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp giảm thiểu rủi ro và hạn chế tổn thất cho ngân hàng.
Phân tích tính chân thật của những thông tin đã thu thập được từ phía khách hàng trong bước 1, từ đó nhận xét thái độ, thiện chí của khách hàng làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay.
Bước 3: Ra quyết định tín dụng
Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Khi ra quyết định, thường mắc 2 sai lầm cơ bản: Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt Từ chối cho vay với một khách hàng tôt.
Cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tín dụng, thậm chí sai lầm thứ 2 còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Bước 4: Giải ngân
Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn mức tín dụng đã ký kết trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan, nhằm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Nhưng đồng thời cũng phải tạo sự thuận lợi, tránh gây phiền hà cho công việc sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Bước 5: Giám sát tín dụng
Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của khách hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách hàng,... để đảm bảo khả năng thu nợ.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng
Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương mại phải đối diện với nhiều rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng.
1.1.2. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng (RRTD) có thể đưa ra là :
- Theo quan điểm của A.Saunders và H. Lange định nghĩa : “Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng, nghĩa là khả năng luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản vay của ngân hàng không thể thực hiện đầy đủ cả về số lượng và thời gian”.
Quan điểm của TimmothyW.Koch : “Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc vốn vay không được thanh toán hay thanh toán trễ hạn”.
Theo đinh nghĩa của Uỷ ban Basel thuộc ngân hàng thanh toán quốc tế: “Rủi ro tín dụng là khả năng là khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thoả thuận”.
Theo quyết định 493/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam tại
khoản
1, điều 2: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Như vậy có thể thấy rằng có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng (RRTD), song về bản chất RRTD là : Khả năng (xác suất) xảy ra những thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng vay vốn thanh toán nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả được nợ vay (gồm gốc và /hoặc lãi)
1.1.2.3. Hậu quả khi xảy ra rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương
mại
Khi rủi ro tín dun
g xảy ra sẽ làm ảnh hưởng xấu đến rất nhiều chủ thể.
Đầu tiên là bản thân các ngân hàng và khách hàng, sau đó là tác động đến cả nền kinh tế.
a. Hậu quả đối với Ngân hàng thương mại
Việc không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các khoản phí) làm cho nguồn vốn của các NHTM bị thất thoát, trong khi đó, các ngân hàng này vẫn phải chi trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động, làm cho lợi nhuận bị giảm sút. Nếu lợi nhuận không đủ thì ngân hàng còn phải dùng chính vốn tự có của mình để bù đắp thiệt hại. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của các NHTM.
Mặt khác, tỷ lệ nợ quá hạn cao làm cho uy tín, niềm tin vào tiềm lực tài chính của ngân hàng bị suy giảm, dẫn đến làm giảm khả năng huy động vốn của ngân hàng, nghiêm trọng hơn nó có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản, đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản và đe dọa sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
b. Hậu quả đối với khách hàng
Đối với bản thân chủ thể không có khả năng hoàn trả vốn (lãi) cho ngân hàng thì họ gần như không có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng và thậm chí là cả những nguồn khác trong nền kinh tế do đã mất đi uy tín.
Cơ hội tiếp cận vốn ngân hàng của các chủ thể đi vay khác cũng bị hạn
chế hơn khi rủi ro tín dun
g buộc các NHTM hoặc thắt cho vay hay thậm chí
phải thu hẹp quy mô hoạt động.
Các chủ thể gửi tiền vào ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được khoản tiền gửi và lãi nếu như các ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
c. Hậu quả đối với nền kinh tế
Hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút và cung cấp tiền cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong nền
kinh tế. Do đó, rủi ro tín dun
g có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế.
Ở mức độ thấp, rủi ro tín dun
g khiến cơ hội tiếp cận vốn mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các khách hàng bị hạn chế, ảnh hưởng xấu đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
Ở mức độ cao hơn, khi có một ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn dẫn đến phá sản, thì hiệu ứng dây chuyền rất dễ xảy ra trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây nên khủng hoảng đối với toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và sự phát triển của đất nước.
1.2. QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản trị và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, từ đó tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao chất lượng và hiệu quả cho vay cả ngắn, trung và dài hạn của NHTM.
Theo Uỷ ban Basel thì: “Hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng là một bộ phận quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trò cốt tử cho sự thành công của Ngân hàng trong dài hạn”.(Basel Committee on Banking Supervision, 2000).
Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng có thể được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng bản chất là giống nhau, và đứng trên góc độ quản trị học, chúng ta có thể hiểu: quản trị rủi ro tín dụng là quá trình các ngân hàng tiến hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận được.
Như vậy, quản trị rủi ro tín dụng gắn liền với quản trị và kinh doanh tín dụng. Quản trị rủi ro tín dụng phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt
động tín dụng ngay cả khi thị trường đầy biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng. Nói cụ thể hơn quản trị rủi ro tín dụng phải nhằm vào hạ thấp rủi ro tín dụng, nâng cao mức độ an toàn trong kinh doanh của mỗi ngân hàng bằng các chính sách, biện pháp quản trị, giám sát các hoạt động tín dụng một cách khoa học và hiệu quả.
Hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động có tính nhạy cảm cao, nó chịu ảnh hưởng của mọi biến động kinh tế - xã hội và cũng ảnh hưởng mạnh đến sự ổn định của kinh tế - xã hội. Nếu một ngân hàng nào đó gặp rủi ro tín dụng, lâm vào tình trạng thiếu khả năng thanh toán, có nguy cơ đi đến phá sản, sẽ gây tâm lý hoảng loạn khiến mọi người đổ xô đi rút tiền để tránh tổn thất, điều đó có thể gây đổ vỡ mang tính hệ thống.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 tại châu Á đã làm cho nhiều ngân hàng mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản, sáp nhập, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất đó là tỷ lệ nợ quá hạn tại các ngân hàng thời điểm đó tăng cao. Gần đây nhất là cuôc khủng hoảng tài chính kinh tế Mỹ có căn nguyên từ việc ngân hàng cho vay thế chấp nhà đất rủi ro cao, đã gây nên khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Nếu rủi ro tín dụng xảy ra trong phạm vi nhỏ, thuộc mức kiểm soát của ngân hàng thì ngân hàng có thể xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Nhưng nếu rủi ro tín dụng vượt quá khả năng kiểm soát của ngân hàng thì sẽ gây hậu quả nghiêm trọng, không chỉ dừng ở việc phá sản của ngân hàng đó mà còn gây tác động tiêu cực đến các tổ chức tín dụng khác, các doanh nghiệp có liên quan, cao hơn là tới toàn bộ nền kinh tế và gây khủng hoảng tài chính.
Do đó quản trị rủi ro tín dụng là vấn đề sống còn của bất kỳ NHTM
nào.
Mức độ rủi ro tín dụng tại các NHTM ngày càng tăng cao
Ngày càng nhiều những ngân hàng được thành lập đã tạo ra cuộc cạnh
tranh khốc liệt giữa các NHTM để chiếm lĩnh thị phần. Ngoài việc nâng cao chất lượng sản phẩm thì áp lực tăng trưởng đã buộc các ngân hàng phải mở
rộng quy mô, phát triển đa dạng các loại hình sản phẩm cấp tín dụng hoặc vô hình chung nới lỏng điều kiện cấp tín dụng; và điều kiện này đồng nghĩa với việc rủi ro tín dụng ngày một tăng cao.
Do đó, để phát triển một cách bền vững các ngân hàng phải đồng thời tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng tương ứng. Quản trị rủi ro tốt nhất chính là lợi thế cạnh tranh của các ngân hàng và là công cụ để tạo ra giá trị của ngân hàng.
1.2.2. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro tín dụng là điều mà tất cả những nhà quản lý ngân hàng đều rất quan tâm, vì nếu quản trị được thì việc hạn chế và phòng ngừa rủi ro trở nên dễ dàng hơn.
Quản trị rủi ro tín dụng bao gồm nhiều cấu phần như chính sách tín dụng, quy trình tín dụng, các công cụ đo lường RRTD, chấm điểm khách hàng vv... Một cách tổng quát theo thông lệ, quản trị RRTD được phân chia thành 4 nội dung lớn: nhận dạng RRTD, đo lường RRTD, kiểm soát, ngăn ngừa RRTD và xử lý tổn thất. Mặc dù có sự phân đoạn trong qui trình quản lý RRTD song một nguyên tắc có tính xuyên suốt là các khâu được phân ra trong qui trình phải luôn so sự liên hệ gắn bó với nhau, tạo thành một chu trình liên tục có vậy mới bảo đảm kiểm soát được rủi ro theo mục tiêu đã định. RRTD một khi đã xác định thì cần phải được phân tích, đo lường và đưa ra các biện pháp quản lý theo dõi. Cũng trong quá trình quản lý theo dõi, hệ thống quản trị RRTD phải có khả năng xác định tìm ra các nguy cơ mới và công việc quản trị rủi ro được lặp lại.
Quản trị RRTD hiệu quả không có nghĩa là rủi ro không xảy ra mà là rủi ro có thể xảy ra nhưng xảy ra trong mức độ đoán trước được và Ngân hàng đã chuẩn bị đủ nguồn lực để bù đắp các rủi ro có thể xảy ra đó.
1.2.2.1 Nhận dạng rủi ro tín dụng
Nhận biết RRTD là việc phát hiện, xác định được các nguy cơ rủi ro tồn tại trong hoạt động tín dụng. Sự phát triển của công nghệ, thị trường và xu
hướng toàn cầu hóa làm cho số lượng rủi ro ngày càng gia tăng và khả năng xảy ra rủi ro sẽ thường xuyên hơn. Vì vậy, một hệ thống quản trị rủi ro có hiệu quả phải là hệ thống có khả năng nhận biết hầu hết các rủi ro của danh mục tín dụng và trả lời được các câu hỏi sau:
RRTD là do đánh giá tín dụng chưa tốt hay do thoái trào kinh doanh hay do gian lận hay chất lượng tài sản thế chấp kém.
Ngân hàng có thể thấy RRTD tăng dần trong thời điểm này do cho vay tập trung không đúng thị trường?
Ngân hàng có thể đạt được mục tiêu dài hạn về RRTD có thể chấp
nhận?
Để đánh giá RRTD tiềm tàng của mỗi khách hàng ngay từ khâu phân
tích hồ sơ xin vay, ngân hàng thường tiến hành nghiên cứu chi tiết sáu khía cạnh (6 "C", chữ cái đầu của tiếng Anh) của hồ sơ xin vay: tính cách, năng lực, dòng tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện và sự kiểm soát. Tất cả phải thỏa mãn các yêu cầu đối với một khoản cho vay tốt theo quan điểm của người cho vay.
Tính cách (Character): cán bộ tín dụng phải có được những bằng chứng cho thấy rằng khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi xin vay và có kế hoạch trả nợ nghiêm túc.
Năng lực (Capacity): cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng khách hàng có đủ tư cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn.
Dòng tiền mặt (Cash flow): đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng đối với một yêu cầu xin vay và thường tập trung vào câu hỏi: liệu người vay có khả năng tạo ra một dòng tiền mặt đủ lớn để đáp ứng yêu cầu hoàn trả cho ngân hàng món vay không?
Tài sản thế chấp (Collateral): trong việc đánh giá tài sản thế chấp cho khoản vay, cán bộ tín dụng phải đặt câu hỏi: người vay có sở hữu một tài sản nào với giá trị ròng tương xứng với khoản vay không?