Truyện Kiều (1878), Lục ân Tiên (1889), Phan Trần (1889)... Rồi bản ăn minh tân học sách của Đông kinh nghĩa thục (1904) khi bàn bạc về sự trì trệ của nước nhà, cổ suý cho phong trào truyền bá quốc ngữ. Phạm Quỳnh, Phan Khôi – những nhà tiên phong trên báo chí, tuy chủ trương theo Tây học nhưng vẫn d ng phương pháp cổ điển có tính chất chủ quan và giáo điều. Đến nhà phê bình chuyên nghiệp đầu tiên là Thiếu Sơn vẫn chưa hết dấu vết ảnh hưởng phương pháp phê điểm cổ điển truyền thống.
Những bài viết về ảnh hưởng văn học Pháp trong văn thơ Việt Nam có đề cập đến ảnh hưởng của E.A.Poe xuất hiện từ năm 1934 đến 1942. Đây là lúc cuộc gặp gỡ phương Tây đã đi đến tột c ng con đường thăng hoa của nó. Nhiều phương pháp lý luận phê bình phương Tây đã được du nhập vào nước ta và đã được vận dụng vào thực tiễn văn học. Phân tâm học đã có mặt khá sớm với Nguyễn Văn Hanh trong Hồ Xuân Hương, thân thế và văn tài (1936), với Trương Tửu - người “Thắp hương chờ đợi thế hệ nhà văn mới” - vừa vận dụng lý thuyết nghệ thuật của H. Taine vừa kết hợp phân tâm học, và phương pháp phê bình văn học Marxist phương Tây trong nhiều công trình có giá trị. Thạch Lam cũng đánh giá cao những phát hiện của S. Freud trong tiểu luận văn học Theo giòng (1941). Trần Thanh Mại mở đầu phương pháp phê bình tiểu sử với Hàn ạc Tử (1941), Hoài Thanh với phê bình ấn tượng trong Thi nhân iệt Nam (1942), và nhiều công trình tiêu biểu của Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan với phương pháp phê bình giáo khoa, Đặng Thai Mai với phê bình Marxist v.v…đều ra đời vào những năm 1941, 1942…Do vậy, ngay từ khi được “nhận dạng”, Edgar Poe đã được khúc xạ qua nhiều lăng kính khác nhau.
1.3.1.2. Không kể cái mốc năm 1917 lần đầu tiên cái tên “Edgar Poe” được Phạm Quỳnh nhắc đến trong bài nghiên cứu Thơ audelaire, Poe chính thức xuất hiện trên văn đàn Việt Nam trong năm bài viết và công trình đầu tiên của các dịch giả, các nhà nghiên cứu phê bình Việt Nam. Đó là lời giới thiệu Vàng và máu của Khái Hưng (1934), bài giới thiệu tiểu sử E. A. Poe được in c ng hai bài thơ đầu tiên của Poe được dịch ra tiếng Việt trong tập Danh văn Âu ỹ của Nguyễn Giang (1936), lời tựa và kết trong chuyên luận Hàn ạc Tử của Trần Thanh Mại (1941), bài tổng kết về Thơ Mới “Một thời đại trong thi ca” mở đầu Thi nhân iệt Nam của
Hoài Thanh (1942), và bài viết về Thế Lữ, Khái Hưng trong Nhà văn iệt Nam hiện đại của Vũ Ngọc Phan (1942). Điều có thể thấy rất rò là cả năm độc-giả- đặc-biệt- đầu-tiên này của E.A.Poe đều là những trí thức Tây học nhưng vốn xuất thân từ gia đình có truyền thống Nho học. Khái Hưng (1896-1947) từng học ở trường Albert Sarraut, đỗ tú tài 1, dạy học ở trường tư thục Thăng Long, là một trong những người khai sáng và là nhà văn trụ cột của Tự Lực Văn đoàn. Vũ Ngọc Phan (1902-1987), Hoài Thanh (1909-1982), Trần Thanh Mại (1911-1965) là những tú tài tây, nhà nghiên cứu phê bình lỗi lạc, đồng thời cũng là những nhà văn, nhà giáo mẫu mực có nhiều công trình bất hủ. Bản thân Nguyễn Giang (1910-1969) con của học giả uyên bác Nguyễn Văn Vĩnh, cũng là một nhà thơ, từng đi du học bên Pháp về, chủ trương Âu Tây tư tưởng và Đông Dương tạp chí. Năm sinh của họ có so lệch nhau đôi chút và tuy là những năm nền Nho học suy tàn song vẫn còn ảnh hưởng rất lớn trong nhiều gia đình Nho học truyền thống. So với tầng lớp công chúng đông đảo của xã hội Việt Nam thời bấy giờ, năm tác giả này thuộc lớp trí thức có trình độ văn hoá, kiến thức văn học cao, là thành phần ưu tú trong xã hội đồng thời cũng là những nhà văn, nhà phê bình chuyên nghiệp. Tuy vậy, xuất phát từ những mục đích tiếp nhận khác nhau, quan điểm thẩm mỹ khác nhau, mỗi người đã chọn một hướng tiếp cận Edgar Poe khác nhau.
1.3.1.3. Khái Hưng đi theo chủ trương của Tự Lực văn đoàn – “một hàn lâm văn học sang trọng, phát ngôn cho mọi chuẩn mực giá trị của văn học được công chúng xa gần thừa nhận” [346] - với tôn chỉ Đem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam" nên mong mỏi “sẽ có nhà văn dung hợp được văn Thái Tây với văn Á Đông, để gây một lối viết theo óc khoa học mà vẫn giữ được thi vị của văn Tàu”. Năm 1934, khi đọc một số truyện kinh dị của Thế Lữ, Khái Hưng và Nhất Linh đều sửng sốt, hết lời ngợi khen phong cách viết truyện mới mẻ “có óc khoa học của Edgar Poe”. Vì sao Khái Hưng đánh giá cao những truyện kinh dị và trinh thám ảnh hưởng Edgar Poe của Thế Lữ? Tuy cũng mang tâm lý của người Việt Nam vốn quen đọc những truyện Liêu Trai của Bồ T ng Linh từ bé, nhưng với con mắt một nhà phê bình, từng tiếp xúc với văn học phương Tây, Khái Hưng đã sớm nhận ra sự bịa đặt dễ dãi trong lối kể chuyện của họ Bồ. Do đó, ông đề cao cốt truyện
gần sự thực nhờ sự chọn lựa bối cảnh chốn rừng rú đặc biệt, và nhất là óc khoa học trong truyên Vàng và Máu. Hơn nữa, với quan niệm không muốn đứt gãy với truyền thống, nhưng vẫn giúp con người An Nam theo kịp đà tiến bộ của phương Tây, các nhà văn chủ trương Tự Lực văn đoàn rất đề cao óc khoa học trong các truyện của Edgar Poe, cho là cái hay ở chỗ “huyền mà không hoặc chút nào”. Những truyện duy lý kiểu Edgar Poe của Thế Lữ đã giúp Tự Lực văn đoàn thu hút đông đảo công chúng, đã phá óc mê tín dị đoan, nâng cao dân trí như tôn chỉ của họ.
1.3.1.4. Vũ Ngọc Phan từng tìm đọc say mê nguyên tác các truyện kì dị của Hoffman và Edgar Poe ở thư viện Trường Viễn Đông Bác cổ, do vậy dễ nhận ra ảnh hưởng Poe và Hoffmann trong sáng tác của Thế Lữ. Nhưng với óc phân tích của một nhà sư phạm, dịch giả, nhà phê bình chuyên nghiệp, ông cũng tinh tế thấy rằng ở hai tác giả này “chỉ những truyện căn cứ vào khoa học, vào sự thiết thực mới thật hay, còn những truyện huyền hoặc của hai nhà văn ấy cũng ít khi cảm được người ta.” [201, 684]. Với ông, cả thơ và truyện của Edgar Poe chỉ “bày tỏ rặt một ý tưởng u sầu, những ý tưởng não n ng, ghê rợn trong bài Con quạ hay ơ trong m ng (Le Corbeau và Un rêve dans un rêve, do Mallarmé dịch ra chữ Pháp) của nhà thi hào Mỹ cũng không xa lạ gì những ý tưởng r ng rợn của ông trong tập Contes extraordinaires (Truyện kì dị do Charles Baudelaire dịch ra Pháp văn)” [201, 688].
Có thể bạn quan tâm!
- Mục Đích Nghiên Cứu Và Nhiệm Vụ Của Đ Tài
- Con Đường Edgar Allan Poe Đến Với Văn Học Việt Nam
- Tình Hình Giới Thiệu, Nghiên Cứu Phê Bình Edgar Allan Poe Ở Việt Nam
- Sự tiếp nhận Edgar Allan Poe ở Việt Nam - 8
- Sự tiếp nhận Edgar Allan Poe ở Việt Nam - 9
- Sự tiếp nhận Edgar Allan Poe ở Việt Nam - 10
Xem toàn bộ 318 trang tài liệu này.
Nhận xét văn Khái Hưng, Vũ Ngọc Phan cho rằng kĩ thuật viết truyện ngắn của Khái Hưng tuyệt hay, quan sát lão luyện, vừa linh hoạt vừa “thường ngụ một ý thật cao” nhất là ở đoạn kết của truyện, “bao giờ tác giả cũng để cho người đọc có một cảm tưởng xa xăm man mác.” [202, 42]. Có lẽ nhà nghiên cứu này muốn nói đến lý thuyết xây dựng truyện ngắn của Poe về hiệu quả của câu chuyện nơi người đọc nên đã dẫn chứng hai truyện ngắn Hạnh và Giọc đường gi bụi và cho rằng lối lập luận của Khái Hưng chính là học tập “của Anatole France, của Hoffmann, của Edgar Poe, toàn những nhà văn chủ trương thuyết hoài nghi.” [202, 43].
Chắc chắn nhờ kinh nghiệm từng đọc không ít tác phẩm của Poe - cả nguyên tác tiếng Anh lẫn những bản dịch tiếng Pháp – người đọc đặc biệt này đã nhìn thấy được sự khác biệt giữa hai tác giả Thế Lữ - Edgar Poe và cách lập luận giống Poe trong sáng tác của Khái Hưng – cây bút quan trọng của Tự Lực văn đoàn. Đây là một
cách đọc Poe khá chính xác của một ngòi bút chuyên nghiệp những năm đầu tiếp cận Poe mà nhiều độc giả c ng thời đồng cảm nhận. Yêu mến nhưng có chọn lọc và chừng mực. Đó cũng là phong cách vốn có của Vũ Ngọc Phan.
1.3.1.5. Edgar Allan Poecủa Nguyễn Giang là bài giới thiệu đầu tiên về nhà văn Mỹ này trong tuyển tập Danh văn Âu ỹ năm 1936. Có nhiều khả năng E. Poe đã từng được ông tiếp cận từ ngay trên đất Pháp. Poe là người có cuộc đời đầy huyền thoại, nhiều ý kiến đánh giá trái ngược nhau, khen chê, khích bác, thậm chí còn bôi nhọ miệt khinh, nhưng bản tóm tắt của Nguyễn Giang khá chính xác và đi theo hướng ca ngợi là chính. Đánh giá tài năng của Edgar Allan Poe, dịch giả đã tỏ ra một sự đồng cảm sâu sắc: “Cái tài của nhà thi sĩ Poe cũng giống cái đời của tiên sinh. Đọc thơ của tiên sinh ta cảm thấy một cuộc đời ba đào, sầu thảm, cay đắng lạ l ng.” [75,155]. Nguyễn Giang đã chọn dịch bài thơ Con quạ (Le Corbeau), chính là bài thơ làm nên tên tuổi của Poe ngay từ khi nó ra đời, và bài ng ảo (Un Rêve dans un Rêve) cũng là bài thơ biểu tượng cho cuộc đời cô độc, bất lực đau buồn của Poe. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, thơ của Poe đã gặp được tâm hồn tri âm của nó ở Việt Nam với một sự đồng cảm, trân trọng. Nhưng qua mấy dòng ngắn ngủi, người đọc có thể nhận ra ở góc độ đạo đức, ít nhiều, Nguyễn Giang vẫn có thái độ phê phán con người bê tha “rượu chè quá chén” của E.A.Poe.
1.3.1.6. Trong chuyên luận Hàn ạc Tử, Tr n Thanh Mại cho thấy những biến chuyển trong tình cảm và cách nhìn nhận của ông về Hàn Mạc Tử bằng cách mượn lời W. Whitman nói lên thái độ ác cảm ban đầu nhưng rồi sau đó lại khâm phục tài năng và yêu mến luôn con người Poe. Trích dẫn ý kiến đó, suy ra, Trần Thanh Mại ban đầu cũng không yêu mến Poe như chính ông từng ác cảm, lạnh nhạt với thơ Hàn Mặc Tử. Nguyễn Bá Tín trong Hàn ặc Tử - anh tôi có tiết lộ: “Ông Mại coi anh Trí như thằng điên (nguyên văn) và không nhận lời giới thiệu văn thơ Anh mà ông ta xét ch ng ra gì” [255]. Nhưng “nhà thơ điên” Edgar Poe đã chinh phục được ông như từng chinh phục W.Whitman khi ông kết luận: “không còn chi đúng hơn là mượn câu của Walt Whitman, nhà thi sĩ Mỹ đã được nhắc đến ở trang đầu sách, khi tác giả tập Lá cỏ (Feuilles d’herbe) phê bình Edgar Poe” [163, 184]. Tuy có ý kiến cho rằng Trần Thanh Mại hơi cực đoan, “đao to búa lớn” nhưng thiết
nghĩ, ông đã rất thành thực khi nêu lên sự thay đổi thái độ của mình với Hàn Mặc Tử
- cũng có thể coi là với Poe - từ ác cảm đến yêu mến, ngưỡng mộ. Lý do vì nếu ông công nhận lối thơ tượng trưng mà Hàn Mặc Tử c ng với các môn đệ của chàng chủ trương là “công nhiên thừa nhận sự bí hiểm của văn thơ, nghĩa là sự phá sản của tư tưởng”. Điều này khác với quan niệm thơ của ông: phải giống như thơ W.Whitman “trong sáng như ánh mặt trời, tươi mát như hơi gió thoảng, cứng cáp và mạnh mẽ như sức khoẻ…” [163, XIV]. Còn thơ và đời của Hàn Mặc Tử lại giống thơ và đời Edgar Poe, mang bóng hình của: “Con người trong giấc chiêm bao ma quái ấy, có thể biểu tượng cho Edgar Poe, cho thiên tài ông, cho thân thế ông, và thi phẩm ông, những thứ ấy, toàn thị cũng là những giấc chiêm bao ma quái nữa.” [163,184].
Trở lại với lý thuyết tiếp nhận, đây là một trường hợp đọc cụ thể. Sống c ng một thời đại, c ng trình độ văn hoá như nhau, c ng là nhà văn nhưng Khái Hưng và Nguyễn Giang ngay từ khi tiếp xúc đầu tiên đã rất thích thú với những truyện của Edgar Allan Poe còn Trần Thanh Mại ban đầu lại dè dặt, ác cảm và phải đi đường vòng mới đến được với Poe. Khoảng cách tiếp nhận này phải chăng do nguồn gốc xuất thân từ một gia đình quan lại của xứ Huế cổ kính ít nhiều chừng mực, tâm lý giáo huấn trong sáng tác vẫn nặng đã khiến tác giả chưa thể chấp nhận ngay những gì ngoài tầm thẩm mỹ quen thuộc vốn có?
1.3.1.7. Hoài Thanh, người được coi là đứng đầu trường phái phê bình văn học “nghệ thuật vị nghệ thuật”, một anh “le nhà quê” lại đến với Poe một cách bình dị hơn. Khác với Trần Thanh Mại, ông xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo xứ Nghệ, từng tham gia phong trào yêu nước của học sinh, bị bắt, bị kết án treo, bị đuổi khỏi trường… Cũng như nhiều trí thức c ng thời, có lẽ Hoài Thanh đã tiếp cận Poe từ những năm học tiếng Pháp ở trường Quốc học Vinh (Collège de Vinh) và trường Bưởi. Phương pháp phê bình ấn tượng của Hoài Thanh mang đầy tính chủ quan. Muốn có cái chủ quan yêu ghét rạch ròi không dựa vào sách vở nào khác ngoài những rung động của chính mình ấy, người viết chắc chắn phải nắm rất vững đối tượng, và phải có một trình độ, bản lĩnh nhất định để phô diễn cho công chúng thấy những tư tưởng, quan niệm riêng của mình mà không phải ai cũng làm được. Hoài Thanh cho rằng cả hai nhà thơ Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên đều chịu ảnh hưởng
Edgar Poe qua Baudelaire nhưng con đường này là một sự tổng hợp: “Chế Lan Viên đã đi từ Baudelaire, Edgar Poe đến Thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đã đi ngược lại từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe…” [249, 32]. Với ông, thơ Chế Lan Viên “như một niềm kinh dị”, cái thế giới thơ lạ l ng và r ng rợn ấy như một giấc mơ dữ dội khiến ông choáng váng, không còn biết mình là người hay ma. Còn vườn thơ Hàn Mặc Tử cũng là một thế giới kì lạ, điên cuồng “rộng rinh không bờ bến càng đi xa càng ớn lạnh” [249, 196] đến độ người đọc phải “mệt lả”. Cả hai đều ảnh hưởng từ Edgar Poe qua Baudelaire. Có lẽ ấn tượng của ông về Poe cũng không khác hai nhà thơ mà ông cho là ảnh hưởng rất nặng này là mấy. Đọc lại Hoài Thanh theo cái nhìn hiện tại, dưới ánh sáng mỹ học tiếp nhận, cái choáng váng, cái mệt lả ấy gợi đến trường hợp chủ thể tiếp nhận đứng trước những tác phẩm quá mới mẻ, đòi hỏi họ phải thay đổi những kinh nghiệm thẩm mỹ vốn có trước đó.
1.3.1.8. Qua những phát hiện, nhận định bước đầu, có thể thấy ngay từ khi Poe có mặt ở Việt Nam, tác phẩm của “văn hào nước Mỹ”, “tài năng kì lạ” này đã được giới sáng tác và nghiên cứu phê bình chú ý tìm đọc với nhiều thái độ tiếp nhận khác nhau. Có e dè, không tán đồng, phủ định…do những khác biệt nhất định trong tầm đón đợi, nhưng về cơ bản vẫn là ngưỡng mộ, bắt chước và chọn lọc, bản địa hoá nó cho ph hợp với yêu cầu hiện đại hoá nền văn học quốc ngữ còn sơ khai của dân tộc, với cách hiểu, cách cảm của thời đại. Và có lẽ, trong thực tế, tầng lớp độc giả chuyên nghiệp này còn đọc nhiều hơn những gì chúng ta có chứng cứ, bởi thế hệ các nhà văn, nhà thơ nhà phê bình hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam này vốn là những trí thức tây học, hầu hết có trình độ từ tú tài hoặc cao đ ng, một số còn du học từ Pháp về. Việc tiếp xúc với các tác phẩm văn học tiếng Pháp (và cả tiếng Anh) không phải là điều khó khăn đối với họ. Tiếc rằng tác giả các công trình trên chỉ mới nêu những dấu hiệu có bóng dáng E.Poe mà chưa làm rò hơn tình thế tiếp nhận giữa các nhà văn, nhà thơ này đối với một nhà văn Mỹ như Poe, và vì sao họ gần gũi Poe mà không phải những tác giả Pháp khác rất phổ biến trên văn đàn Việt Nam thời họ sống như Lamartine, Musset, Rimbaud, Verlaine...? Tuy vậy, những nhận định về Poe của các nhà nghiên cứu phê bình văn học tên tuổi này vẫn có giá trị khó thay thế, gần như các công trình tiếp sau nào cũng đều kế thừa, trích dẫn, minh hoạ.
1.3.2. Giai đoạn 2: từ sau 1945 đến 1975
1.3.2.1. Chặng đường ba mươi năm này nằm trọn trong những năm chiến tranh chia cắt mất mát đau thương của dân tộc. Có lẽ không cần lý giải nhiều, người đọc cũng nhận ra sự chi phối khủng khiếp của chiến tranh đã dẫn đến tình hình giao lưu văn hoá, chính trị đối đầu không bình thường kéo dài giữa nước ta và nước Mỹ. Lịch sử văn học là sự vận động như nó đã diễn ra trên thực tế, vì vậy, không thể nào không mang dấu ấn thời đại mà nó được sản sinh ra. Do đó, những con số không ở cả ba miền Nam – Trung - Bắc trên biểu đồ tiếp nhận Edgar Poe thời kì những năm kháng chiến chống Pháp 1946-1954 cũng là điều dễ hiểu. Phải chăng đó là sự chọn lựa tất yếu khi mà hoàn cảnh lịch sử đang có những nhu cầu thúc bách hơn trước sự tồn tại của vận mệnh của dân tộc. Nhìn chung, đặc điểm tiếp nhận ở giai đoạn này là sự trống vắng và đứt quãng. (Bảng 1.2)
1.3.2.2. Ở miền Bắc, cả giai đoạn dài từ 1955 đến 1975, và cả mười năm tiếp theo, qua khảo sát, chúng tôi thấy không có bài viết, công trình nghiên cứu nào về Edgar Allan Poe d tác phẩm của Poe vẫn rải rác xuất hiện ở các đô thị miền Nam. Điều này không chỉ riêng Poe mà dường như cũng tương tự ở các tác giả văn học Mỹ khác. Từ 1954, quan hệ giao lưu văn hoá văn học với Mỹ vốn lẻ tẻ tự phát nay càng trở nên phức tạp và đen tối hơn bao giờ hết khi đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp và trở thành kẻ xâm lược nước ta. Văn hoá Mỹ vốn có những khoảng cách với tư duy người Á Đông, lại du nhập vào nước ta theo tiếng súng xâm lược của đế quốc Mỹ, nên ngay từ ban đầu đã không được sự thiện cảm của người dân Việt. Sau Hiệp định Genève, miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chịu ảnh hưởng của nền văn học Nga-Xô Viết. Văn học phương Tây ngoài phe xã hội chủ nghĩa bị quay lưng và trở nên xa lạ. Khuynh hướng chi phối chung là đề cao văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa và cách mạng, những tác phẩm u buồn và kinh dị, huyễn hoặc của Poe khó có thể bắt gặp nền tảng triết học duy vật biện chứng ở miền Bắc. Đó cũng là một sự chọn lựa, một thái độ tiếp nhận trong một hoàn cảnh lịch sử không bình thường: cuộc chiến đối đầu gay gắt của dân tộc ta và Mỹ .
1.3.2.3. Ở miền Nam, mặc d cũng có một thập kỉ trống vắng về nghiên cứu phê bình trong những năm bưng biền toàn quốc kháng chiến chống Pháp 1945-1954,
nhưng một số truyện kinh dị của Poe vẫn không ngừng được yêu thích qua các truyện dịch của Thiết Can, Hoàng Lan…(Xem Phụ lục 2). Sau 1954, Poe lại được tiếp nhận không phải với nhu cầu học hỏi các khuôn mẫu, kĩ thuật sáng tác hiện đại phương Tây như giai đoạn trước mà thiết thực hơn là nhằm học tập cách viết văn và luyện tiếng Anh qua các sách song ngữ của Lưu Bằng, Lê Bá Kông, Đắc Sơn... Thuận lợi của Poe ở miền Nam là v ng đất Mỹ chiếm đóng, giao lưu văn hoá tuy chủ yếu là chiều nhận nhưng sách báo nguyên tác được du nhập rộng rãi thậm chí tự do đến mức xô bồ. Vì thế, việc giới thiệu, nghiên cứu tiếp nhận Poe tuy không nhiều, chủ yếu là các lời giới thiệu tác phẩm dịch, nhưng vẫn không đứt quãng sau sự kiện chia đôi đất nước mà tiếp tục được đi sâu nghiên cứu, tiếp nhận một cách đầy đủ hơn gồm cả truyện kinh dị, huyễn tưởng, tiểu luận phê bình và thơ.
Về các bài giới thiệu tác giả, tác phẩm, chúng tôi thấy các dịch giả có hai thái độ đánh giá khác nhau đối với tài năng và con người E.A.Poe. Từ hung trong lời giới thiệu tập truyện Con bọ hung vàng do Hoàng Lan dịch năm 1957 đã dành khá nhiều từ đẹp đẽ (có vẻ hơi quá đề cao-HKO) dành cho Poe. Ông viết: Edgar Allan Poe là “dòng dòi thế phiệt”, “mẫu thân đã có một thời là một minh tinh chói lọi của sân khấu kịch trường Mỹ quốc.”[212, 6] Từ Chung cũng lý giải sự đánh giá E. Poe của những độc giả Mỹ c ng thời: “Sở dĩ như vậy vì con người của văn sĩ xuống thấp quá, trong khi tác phẩm cuả ông lại lên cao quá, và chỉ trích xã hội đương thời một cách quá ư trào lộng khiến người ta miệt thị lối sống của con người, mà vẫn phải ghen tị với tiếng tăm của nhà văn” [212, 5]. Cách d ng từ “trào lộng” có vẻ không sát nghĩa, còn những cụm từ “mới dúm tuổi đầu”, “ăn chơi quá độ”, la cà nơi trà đình tửu quán” tuy mang sắc thái bình dân dễ hiểu nhưng cũng đầy cảm tính phê phán về “một con người bê tha, truỵ lạc”. Tuy vậy, bài giới thiệu của Từ Chung lại sớm nhận ra điểm siêu việt trong kĩ thuật sáng tác của Edgar Allan Poe, một văn hào đi tiên phong trong địa hạt siêu hình học của tình cảm sợ hãi, đã biết: “Vun trồng tình cảm sợ hãi với một nghệ thuật điêu luyện” [212, 9]. Và ở góc độ người đọc chuyên nghiệp, Từ Chung đã kh ng định vị trí của Poe là người tiên phong “đánh dấu một đường rẽ” đổi mới diện mạo văn học sử thế giới, “vì đã làm nổi bật lên được cái vẻ đẹp kì dị, cái tính chất nên thơ của tình cảm sợ hãi.” [212, 6].