Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bảo Vệ Cổ Đông Thiểu Số

của DTA, bà Mai đã tiến hành thu mua nguyên liệu sản xuất từ các nhà cung cấp khác, thay vì mua từ Vocarimex. Theo quy chế thu mua nguyên liệu của DTA, nhà cung cấp phải chào giá bằng fax đồng thời cho TGĐ và Chủ tịch HĐQT, trong khi đó, Chủ tịch HĐQT DTA lại là Phó tổng giám đốc của Vocarimex nên phía công ty này luôn nắm được mức giá chào bán của các đối tác khác. Vocarimex không tự sản xuất ra nguyên liệu đầu vào mà chỉ đóng vai trò là 1 đầu mối trung gian và DTA hoàn toàn chủ động việc nhập khẩu trực tiếp. Việc mua nguyên liệu qua Vocarimex đã xâm phạm đến lợi ích của các cổ đông bên ngoài, trái với quy định tại LDN 2005 và vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ bản của chào giá cạnh tranh.

Tại ĐHĐCĐ 2013 của CTCP Thủy điện Nà Lơi (NLC), Tổng công ty Sông Đà, cổ đông sở hữu 51% cổ phần của NLC đã bất ngờ đưa ra đề nghị: tất cả các cổ đông tham dự có quyền biểu quyết thông qua các vấn đề trình ĐHĐCĐ, trong đó có phương án sáp nhập NLC vào CTCP Thủy điện Cần Đơn (SJD), một công ty con khác của Tổng công ty Sông Đà. Theo quy định tại Điều 120 LDN 2005 và Điều 33, Điều lệ tổ chức và hoạt động của NLC, Tổng công ty Sông Đà là người có liên quan và sẽ không có quyền tham gia biểu quyết tờ trình về phương án sáp nhập NLC vào SJD, để tránh xung đột lợi ích với các cổ đông khác. Nội dung này cũng được thể hiện rõ trong Quy chế làm việc tại ĐHĐCĐ năm 2013 của NLC. Tuy bị 20 cổ đông phản đối đề xuất của Tổng công ty Sông Đà, nhưng ĐHĐCĐ NLC đã thông qua đề nghị trên. Kết quả là, phương án sáp nhập NLC vào SJD đã được thông qua [28].

3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số

3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quyền của cổ đông thiểu số

3.2.1.1. Nên thay đổi quy định về điều kiện thành lập nhóm cổ đông

Khoản 2 Điều 114 LDN 2014 quy định cho các cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục

ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có một số quyền hạn thêm như: quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ; Đề cử người vào HĐQT và BKS; Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của HĐQT, báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của BKS; Yêu cầu BKS kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty. Theo em, tỉ lệ 10% là khá lớn để cổ đông các công ty đại chúng hay các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa đạt được. Hơn nữa khi đã thỏa mãn điều kiện này thì phải thỏa mãn một điều kiện khác đó là phải sở hữu liên tục ít nhất sáu tháng. Nếu là các cổ đông lớn nhận chuyển nhượng nhưng không đủ sáu tháng thì họ có quyền biểu quyết hay không, luật không đề cập đến. Do vậy, nếu vẫn để quy định như cũ sẽ tạo sự phân biệt đối xử giữa cổ đông lớn và CĐTS, nếu là cổ đông lớn do nhận chuyển nhượng cổ phần nhưng chưa đủ sáu tháng thì vẫn có đầy đủ quyền, còn cổ đông nhỏ thì không. Pháp luật đã quy định: mỗi cổ phiếu như nhau đều cho cổ đông sở hữu nó những quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Và mặc dù cổ đông chưa sở hữu cổ phiếu đủ sáu tháng liên tục nhưng họ đã là cổ đông và những vấn đề mà Pháp luật quy định liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ. Theo em, sau này khi sửa đổi LDN 2014, Khoản 2 Điều 114 nên được quy định theo hướng: không quy định cổ đông, nhóm cổ đông phải sở hữu trong sáu tháng liên tục và đồng thời nên quy định một tỉ lệ nhỏ hơn 10%.

3.2.1.2. Về quyền nhận cổ tức

Thứ nhất, cần phải quy định thêm: việc chi trả cổ tức đúng thời hạn là trách nhiệm, nghĩa vụ của GĐ/TGĐ hoặc chủ tịch HĐQT; nếu không thực hiện đúng những người này phải chịu trách nhiệm cá nhân tương tự như việc trách nhiệm về công bố thông tin. Bởi nếu chỉ bắt doanh nghiệp trả thêm lãi suất hay phạt doanh nghiệp thì đây vẫn là tiền của cổ đông;

Thứ hai, nên quy định nếu doanh nghiệp vi phạm, bất cứ cổ đông nào cũng có quyền khởi kiện yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đúng hoặc bồi thường cho những thiệt hại mà doanh nghiệp gây ra cho mình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Ngoài ra, về phía cổ đông: cần ý thức vấn đề thời điểm trả cổ tức và có thể yêu cầu đưa thời hạn này vào ngay trong nghị quyết ĐHĐCĐ thường niên.

3.2.1.3. Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần

Sự phát triển của pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam - 11

Về thời hạn mà công ty phải mua lại cổ phần trong trường hợp cổ đông yêu cầu, Điều 129 LDN 2014 quy định là 90 ngày làm việc. Em cho rằng thời hạn trên là khá dài và nên giảm thời hạn xuống. Vì thông thường chỉ có

CĐTS mới thưc

hiên

quyền này , họ là đối tượng dễ bị tác động tiêu cực nhất

̀ các quyết điṇ h của công ty có sự chi phối của các cổ đô ng lớn. Mặt khác,

họ cũng chỉ sở ̃u số lươn

g cổ phần không nhiều trong công ty , quy định

thời hạn kéo dài như trên là không cần thiết và gây bất lợi cho cổ đông. Môṭ khi cổ đông đã yêu cầu công ty mua laị cổ phần , nghĩa là họ không còn muốn

gắn bó lâu dài với công ty , do vây pháp luâṭ nên quy điṇ h công ty sớm giải

quyết yêu cầu của cổ đông trong trường hơp hồi vốn và đầu tư ở những nơi khác.

này , để cổ đông có điều kiện thu

Trong trường hơp

giá cổ phần đươc

xác điṇ h bằng cách thứ c điṇ h gia

của tổ chức định giá chuyên nghiệp , pháp luật cũng không quy định cụ thể

vấn đề chi phí điṇ h giá thuôc về cổ đông yêu cầu hay phía công ty . Do đó ,

pháp luật cần thiết phải có quy đị nh cu ̣thể xác điṇ h chi phí điṇ h giá thuôc

về

bên nào để đảm bảo chế điṇ h này đươc

thưc

thi môt

cách hiêu

quả.

Về điều kiện để thực hiện quyền: Pháp luật chỉ cho phép cổ đông thực

thi quyền này trong hai trường hơp

cu ̣thể là “C ổ đông biểu quyết phản đối

nghị quyết về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty”. Theo em đối với riêng các CĐTS , pháp

luâṭ nên quy điṇ h “ trong trườ ng hơp

số lươn

g CĐTS trong CTCP chi ếm một

tỷ lệ quá thấp, dân

đến tỷ lê ̣sở ̃u cổ phần do họ nắm giữ không đat

đủ điều

kiên

để lâp

nhóm cổ đông theo quy điṇ h của phá p luât

hoăc

Điều lê ̣công ty ,

thì cổ đông có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần” . Bởi vì ở những

CTCP mà số lươn

g cổ phần do tất cả các CĐTS nắm giữ chiếm môt

tỷ lê ̣qua

thấp, dân

đến quyền lơi

của ho ̣không đươc

đảm bảo bằng biên

pháp gián tiếp

cuối cùng là thông qua nhóm cổ đông , thì quy đ ịnh này sẽ giúp CĐTS tránh

đươc

tình traṇ g phải ở laị công ty , chịu sự chèn ép của cổ đông lớn và có thể

chủ động lựa chọn con đường đầu tư có lợi cho đồng vốn của mình . Hơn thế

nữa, quy điṇ h này sẽ bắt buôc

các CTCP phải tôn tron

g q uyền lơi

của CĐTS

nếu công ty có nhu cầu thu hút các nhà đầu tư vốn nhỏ . Bình thường, mặc dù pháp luật luôn khuyến khích các CTCP quy định tỷ lệ sở hữu cổ phần để lập nhóm cổ đông trong Điều lệ thấp hơn so với quy định của pháp luật (10%), để tạo điều kiện cho CĐTS có thể đóng góp tiếng nói của mình vào công ty

thông qua nhóm cổ đông . Nhưng trên thưc

tế , các cổ lớn luôn tìm mọi cách

hạn chế đến mức thấp nhất sự tham gia của CĐTS vào các ho ạt động của

công ty, Điều lệ của CTCP thường quy điṇ h tỷ lê ̣sở ̃u cổ phần để lâp nhóm

cổ đông là 10% như luâṭ điṇ h. Nếu pháp luâṭ trao thêm quy ền cho CĐTS như ý kiến đề xuất, sẽ buộc các CTCP phải hạ điều kiện về tỷ lệ sở hữu cổ phần để

lâp

nhóm cổ đông trong Điều lê ̣công ty xuống thấp , nhằm han

chế viêc

CĐTS thưc

hiên

quyền này . Hơn thế nữa, các cổ đông lớn sẽ phải tôn trọng ,

đối xử bình đẳng với CĐTS để giữ đươc

ho ̣ở laị công ty . Như vây

, chỉ cần

trao cho CĐTS quyền năng này thì trong moi

trường hơp

CĐTS đều sẽ đươc

bảo vệ, có thể là được bảo vệ thông qua nhóm cổ đông hoặc từ ý thức , thái độ

tôn tron

g CĐTS của công ty . Ví dụ, môt

CTCP có 100 cổ đông, trong đó co

10 cổ đông lớn sở ̃u tới 93% vốn điều lê , 90 CĐTS còn laị chỉ ̉ ̃u 7%

vốn điều lê ̣ (thường xảy ra đối với những CTCP có vốn góp chi phối của nha

nước). Do vậy, 90 CĐTS của công ty không thể bảo vê ̣đươc quyêǹ lơ ̣ i của

mình thông qua ch ế định “nhóm cổ đông” nếu công ty cũng quy điṇ h về điều

kiên

l ập thành nhóm cổ đông là 10% như luâṭ điṇ h . Trong trường hợp này ,

nếu pháp luâṭ trao cho CĐTS quyền đươc

yêu cầu công ty mua laị cổ phần, thì

CĐTS sẽ tránh được tình trạng phải ở lại và chịu sự chèn ép của các cổ đông

́n. Về phía công ty , nếu không muốn các CĐTS thưc

hiên

quyền rút vốn ,

làm ảnh hưởng đến uy tín , tài sản và hoạt động của công ty , thì công ty bắt

buôc

phải: (i) quy điṇ h giảm điều kiên

về tỷ lê ̣sở ̃u cổ phần để lâp

nhóm cô

đông trong Điều lê ̣công ty nhằm loaị bỏ quyền năng này của CĐTS ; hoăc

(ii)

đối xử môt

cách dân chủ , công bằng và tôn tron

g quyền lơi

của CĐT S để

tránh tình trạng họ bất mãn và rút vốn ra khỏi công ty.

3.2.1.4. Về hình thức tham dự và thực hiện quyền biểu quyết

Các văn bản hướng dẫn LDN 2014 cần quy định rõ quy trình, thủ tục và các điều kiện thực hiện việc tham dự ĐHĐCĐ bằng các hình thức khác (cụ thể đối với từng hình thức khác) để tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng quy định trên vào thực tế. Cũng như cần quy định rõ các thể thức tiến hành họp ĐHĐCĐ, thủ tục ủy quyền biểu quyết, thủ tục lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản để thông qua Quyết định của ĐHĐCĐ.

Ngoài ra, em cũng xin đề xuất nên sử dụng số phiếu “không tán thành” (hay còn gọi là quyền phủ quyết) trong các ĐHĐCĐ. LDN có quy định về loại phiếu “không tán thành” trong các ĐHĐCĐ nhưng giá trị của lá phiếu “không tán thành” như thế nào thì lại chưa được xem xét tới (trong khi đó liên quan đến việc họp HĐQT thì Khoản 4 Điều 149 LDN 2014 quy định thành viên phản đối thông qua các nghị quyết sai trái của HĐQT thì sẽ được miễn trừ trách nhiệm nếu quyết định đó gây ra thiệt hại cho công ty). Thực tế cho thấy, trong một số trường hợp số phiếu “không tán thành” có thể được sử dụng để bảo vệ quyền lợi của các CĐTS. Ví dụ, trường hợp các CĐTS phản đối việc cổ đông lớn muốn bãi nhiệm thành viên HĐQT mà mình bầu nên thì

LDN có thể quy định rằng “quyết định miễn nhiệm thành viên HĐQT (trong trường hợp miễn nhiệm không có lý do theo điều Khoản 2 Điều 156 LDN 2014) sẽ không được thông qua nếu nhận được số phiếu không tán thành của số cổ đông đại diện ít nhất 10% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp”. Quy định này là hợp lý vì nếu cổ đông hoặc nhóm cổ đông chiếm 10-20% cổ phần biểu quyết có quyền đề cử một ứng viên thì họ cũng có quyền được phản đối hành động nào muốn miễn nhiệm người được họ đề cử.

3.2.1.5. Quy định về việc bãi miễn thành viên HĐQT và BKS

Quy định này cần được cụ thể hoá vì nó có thể loại bỏ hiệu quả của công cụ bầu dồn phiếu. Để hoàn thiện hơn quy định này nên xác định cụ thể những trường hợp nào, những lý do nào có thể được viện dẫn làm nguyên nhân cho việc bãi miễn thành viên HĐQT/BKS. Nội dung này chưa được LDN 2014 thể hiện nhưng hy vọng sẽ sớm được cập nhập trong các lần bổ sung sửa đổi sau hoặc sẽ được quy định cụ thể trong các nghị định hướng dẫn thi hành.

3.2.1.6. Quyền yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ

Khoản 3 điều 114 LDN 2014 quy định “Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ trong trường hợp HĐQT vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao” nhưng lại không quy định thế nào là vi phạm nghiêm trọng. Điều này khiến quy định trên chỉ mang tính hình thức không thực tế. Do vậy, trong các văn bản hướng dẫn LDN 2014 cần quy định rõ thế nào là vi phạm nghiêm trọng, trong những trường hợp nào thì HĐQT đã vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông. Điều này giúp cổ đông nắm rõ quyền của mình, tránh tình trạng triệu tập ĐHĐCĐ tùy tiện hay cổ đông không dám thực hiện quyền của mình. Đây cũng chính là mức giới hạn cho các nhà quản lý, thành viên HĐQT trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình.

Đối với vấn đề triệu tập ĐHĐCĐ bất thường: Thứ nhất, tại Điểm a Khoản 3 Điều 136 LDN 2014 cho phép HĐQT triệu tập họp bất thường ĐHĐCĐ nếu “xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty” là một quy định khá rủi ro, vi phạm quyền lợi của CĐTS. Bởi vì HĐQT thường là đại diện cho tiếng nói của cổ đông lớn, trao cho họ quyền triệu tập ĐHĐCĐ bất thường bất cứ lúc nào là một việc làm nguy hiểm. Do đó, tại nghị định hướng dẫn thi hành LDN 2014 nên hạn chế vấn đề này theo hướng quy định chế tài phạt đối với mỗi thành viên HĐQT nếu HĐQT triệu tập họp ĐHĐCĐ bừa bãi, làm ảnh hưởng đến lợi ích cũng như hoạt động của công ty, đặc biệt là CĐTS. Thứ hai, LDN 2014 chưa quy định rõ ràng về việc ĐHĐCĐ bất thường được tổ chức như thế nào khi thời hiệu tổ chức ĐHĐCĐ thường niên vẫn còn (từ 4 đến 6 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính). Tại nhiều CTCP khi đang trong thời gian tổ chức ĐHĐCĐ thường niên, nhóm cổ đông lớn thông qua HĐQT đã tiến hành triệu tập ĐHĐCĐ bất thường để thực hiện các mục tiêu và lợi ích nhóm của mình, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của các CĐTS còn lại. Mặt khác, trong nhiều trường hợp khi nhóm CĐTS khởi kiện ra Tòa án thì Tòa mặc nhiên công nhận lý do “vì lợi ích của công ty” hoặc đơn giản là “vì LDN không quy định vấn đề này”. Để giải quyết tồn tại trên, trong nghị định hướng dẫn thi hành LDN 2014 sắp tới, nên quy định theo hướng “trong thời gian tổ chức ĐHCĐ thường niên, doanh nghiệp không được tổ chức ĐHCĐ bất thường để giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHCĐ thường niên”.

3.2.1.7. Đối với nhóm quyền về thông tin-kiểm soát

Pháp luật nên yêu cầu CTCP công bố thông tin cụ thể và chi tiết hơn; không chỉ là cung cấp các thông tin trong quá khứ mà cả thông tin tương lai như về thay đổi thị trường sản phẩm, thị trường đầu ra của công ty, những tác động của thị trường vốn và những yếu tố khác hoặc nhóm thông tin về HĐQT như: thành viên HĐQT có sở hữu bao nhiêu phần trăm trong công ty và

những công ty khác, năng lực kinh nghiệm của HĐQT, ai giới thiệu vào HĐQT… để thể hiện đường lối, sách lược phát triển công ty. Thông qua đó các

nhà đầu tư, đăc

biêṭ là CĐTS có thể dự tính và chủ đôn

g trong quyết đin

h đầu

tư của mình; đồng thời phần nào han chế được tình traṇ g cổ đông lớn sử dung

các thông tin chưa được công bố để giao dịch chứng khoán thu lợi bất chín.h

Ngoài ra, cần phải quy điṇ h trách nhiêm của người quản lý (HĐQT va

BKS) khi không tao

điều kiên

thuân

lơi

để CĐTS tiếp cân

thông tin m ột cách

chính đáng khi họ yêu cầu. Cùng với đó cũng cần phải mở rôn

g thẩm quyền

khởi kiên c ủa CĐTS thông qua nhóm cổ đông : nếu HĐQT , BKS và những

người quản lý công ty có hành vi gây khó khăn , hạn chế hoặc ngăn cản quyền

tiếp cân

thông tin của CĐTS thì CĐTS có quy ền khởi kiện những người này

ra Tòa. Các quy định này sẽ giúp quyền tiếp cânbảo vệ mạnh mẽ hơn.

thông tin c ủa CĐTS được

3.2.1.8. Quyền kiểm soát các giao dịch tư lợi

Thực tế cho thấy trong hầu hết các trường hơp


, các công ty chưa xác

điṇ h cu ̣thể đư ợc các đối tươn

g thuôc

diên

các bên có liên quan c ủa công ty ;

chưa có phương pháp thu thâp̣ , tâp

hơp

, lưu trữ và quản lý hồ sơ về các bên có

liên quan và chưa xác điṇ h đươc các giao dic̣ h với các bên có liên quan cần

kiểm soát. Vì vậy, để phát huy quyền kiểm soát các giao dịch tư lợi: Thứ nhất, nghị định hướng dẫn thi hành LDN nên hướng dẫn cụ thể chi tiết hơn nữa về khái niệm người có liên quan của doanh nghiệp và cá nhân người quản lý doanh nghiệp. Khái niệm người có liên quan cũng phải bao quát được cả những biến tướng của thực trạng đầu tư và sở hữu chéo nhằng nhịt thời gian

qua của các công ty đại chúng, niêm yết trên thị trường chứng khoán; Thứ

hai, cần tăng cường hơn n ữa quyền kiểm soát của CĐTS trong viêc xem xet́

các tài liệu, sổ sách của công ty; Thứ ba, LDN 2014 còn thiếu những quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với doanh nghiệp vi phạm các quy định liên

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí