Các Nghiệp Vụ Cơ Bản Của Ngân Hàng Thương Mại‌

Như vậy, khái niệm về NHTM được phát biểu như sau: NHTM là một

loại hình tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng, với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại


1.1.2.1. Chức năng làm trung gian tín dụng


Trong nền kinh tế tại một thời điểm luôn tồn tại tình trạng: có một số lượng vốn tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể chưa cần dùng đến, mặt khác lại có một số lượng chủ thể khác tạm thời thiếu vốn để hoạt động, kinh doanh, đầu

tư hoặc tiêu dùng, v.v... [V31]; [V23]; [V18]. Để giải quyết tình trạng này thì

NHTM với vai trò là trung gian, là nhịp cầu nối liền chủ thể thừa và thiếu vốn

trong nền kinh tế lại với nhau, là người “đi vay để cho vay”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 264 trang tài liệu này.


Hoạt động tín dụng của NHTM đã góp phần khắc phục các hạn chế trong quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể có nhu cầu tiền tệ bổ sung. Với chức năng này, NHTM làm trung gian chuyển vốn tiền tệ từ nơi thừa đến nơi thiếu cho các chủ thể tham gia không có mối liên hệ trực tiếp với nhau và điều này có một vai trò kinh tế to lớn đối với nền kinh tế.

Quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam - 4

1.1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán


Xuất phát từ chức năng là người thủ quỹ của các doanh nghiệp, ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự ủy nhiệm của khách hàng. Kế thừa và phát triển chức năng “thủ quỹ của các doanh nghiệp” nên hầu hết NHTM thực hiện nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền hàng hóa và dịch vụ cá nhân, doanh nghiệp, v.v...theo lệnh của chủ tài khoản [V31]; [V23]; [V18].. Khách hàng sẽ mở tài khoản tại các NHTM và ra lệnh cho ngân hàng thực hiện

khoản chi trả hoặc ủy nhiệm cho ngân hàng thu các khoản từ người mua, v.v... Như vậy, các doanh nghiệp không phải thực hiện các công việc mất nhiều thời gian và công sức mà vẫn không đảm bảo như đếm tiền, nhận tiền, v.v.... trong quá trình thanh toán với các đối tác trong nền kinh tế.


Chức năng làm trung gian thanh toán của NHTM ngày nay không chỉ đơn thuần và mang tính truyền thống như trước, mà cùng với sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại, v.v... đã tạo điều kiện cho các NHTM thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử trực tuyến, v.v... với nhau nhanh chóng và chính xác hơn, tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội, thúc đẩy luân chuyển vốn và quá trình lưu thông hàng hóa ngày càng phát triển.


Đối với khách hàng thuộc các tầng lớp dân cư, việc mở tài khoản và ký gửi tiền tại ngân hàng, ngoài việc được ngân hàng cung cấp một số tài khoản để thuận tiện việc chi trả, còn được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng về tài chính có sinh lợi khác như các chương trình khuyến mại về phí dịch vụ, liên kết, thanh toán v.v...

1.1.2.3. Chức năng tạo tiền


Quá trình tạo tiền của NHTM được thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng và trong mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống Ngân hàng Trung ương (NHTW) của mỗi quốc gia [V29,V30].


Đây chính là chức năng góp phần gia tăng khối lượng tiền tệ cho nền kinh

tế.


Như vậy, quá trình tạo tiền là hệ quả tổng hợp của hoạt động nhận tiền

gửi, thanh toán hộ

và cho vay của các NHTM luôn luôn có sự

trợ

giúp của

NHTW. Tuy nhiên, việc tạo tiền có khả năng làm cho các NHTM mất khả năng

chi trả tiền mặt và lúc đó NHTW phải cho các NHTM vay để bù đắp thiếu hụt thanh khoản. Bằng việc tạo tiền trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, NHTM đã thể hiện vai trò của mình trong việc góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của NHTW thông qua chính sách tiền tệ.

1.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại‌


Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các NHTM hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực, tuy nhiên nó tập trung vào ba nghiệp vụ chính là: nghiệp vụ Tài

sản có (TSC), nghiệp vụ [V29,V30].

tài sản nợ

(TSN) và nghiệp vụ

môi giới khác

1.1.3.1. Nghiệp vụ Tài sản nợ


Nghiệp vụ TSN bao gồm các hoạt động liên quan đến việc nhận vốn từ người gửi tiền và những người cho vay khác nhau tự quyết định mức góp vốn của mình, một cách thích hợp, vào một ngân hàng đặc biệt nào đó. Nghiệp vụ TSN còn liên quan đến việc cung cấp cho các nhu cầu về thanh khoản thông qua việc chủ động tìm kiếm thêm vốn vay, khi cần thiết hoặc bán các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu chính phủ, chứng khoản, v.v.... ở thị trường thứ cấp.


NHTM thực hiện nghiệp vụ này chính là dùng các biện pháp nhằm huy động, thu hút các nguồn vốn từ khách hàng trong nền kinh tế. Đây là nghiệp vụ quan trọng, tạo nên nguồn tài nguyên cho ngân hàng. Trên cơ sở đó, ngân hàng sử dụng chúng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, v.v...bằng các nguồn vốn như:


­ Nguồn vốn chủ sở hữu.


­ Vốn huy động:

+ Tiền gửi không kỳ hạn


+ Tiền gửi có kỳ hạn.


­ Vốn đi vay từ NHNN, NHTM khác, vay thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài, v.v...

1.1.3.2. Nghiệp vụ Tài sản có


Từ tài nguyên là các nguồn vốn có được từ nghiệp vụ TSN, NHTM sử

dụng chúng để đầu tư, cho vay, v.v... Do đó nghiệp vụ này phản ánh việc sử dụng vốn của ngân hàng theo định hướng đảm bảo an toàn và sinh lời, cụ thể thông qua các nghiệp vụ ngân quỹ (dự trữ tiền mặt), nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ đầu tư vào chứng khoán và các nghiệp vụ khác:


­ Nghiệp vụ ngân quỹ nhằm duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt và thanh toán thường xuyên của khách hàng. Mức dự trữ cao hay thấp tùy thuộc vào quy mô hoạt động của ngân hàng, mối quan hệ thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi tiền mặt.


­ Nghiệp vụ tín dụng: NHTM vận dụng các hình thức khác nhau của

nghiệp vụ tín dụng để tái phân phối quỹ nhằm cung ứng vốn tín dụng cho các chủ thể trong nền kinh tế, phục vụ nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hóa, dịch vụ, đời sống với mục đích thu được các khoản lợi chủ yếu để trang trải chi phí. Các nghiệp vụ tín dụng cụ thể bao gồm: cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.


­ Nghiệp vụ đầu tư vào chứng khoán: NHTM thực hiện nghiệp vụ này

bằng nguồn vốn tự có còn lại sau khi đã dùng vào các yêu cầu thiết yếu khi thành lập ngân hàng thông qua các loại hình đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính.

1.1.3.3. Nghiệp vụ khác


Nghiệp vụ khác là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt các dịch vụ liên quan: chuyển tiền, thông qua các hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng tại ngân hàng như phát hành séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới chứng khoán, quản lý hộ tài sản cho khách hàng, tư vấn cho

doanh nghiệp.., ngân hàng sẽ hồng, phí [V29,V30].

nhận được một khoản thu dưới hình thức hoa


Ngày nay, xu hướng của ngân hàng là hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Các nghiệp vụ có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là thu được lợi nhuận cao nhất.

1.1.4. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại‌


Các rủi ro của ngân hàng thương mại có thể được chia làm 4 loại: rủi ro tài chính, rủi ro hoạt động, rủi ro kinh doanh và rủi ro sự kiện [V26]

­ Rủi ro tài chính (financial risk) được chia làm 2 loại: rủi ro thuần túy và rủi ro đầu cơ. Rủi ro thuần túy bao gồm rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng và rủi ro thanh toán ­ những rủi ro có thể gây ra tổn thất cho ngân hàng nếu như không được quản lý một cách triệt để. Rủi ro đầu cơ phát sinh từ việc mua bán các sản phẩm tài chính. Nếu quyết định mua bán đúng sẽ tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, ngược lại nếu sai sẽ gây ra mất mát. Các rủi ro đầu cơ chính bao gồm: rủi ro ngoại hối và RRLS (rủi ro thị trường).


­ Rủi ro hoạt động (operation risk) liên quan đến cơ cấu tổng thể của một ngân hàng cũng như chức năng của các hệ thống nội bộ (bao gồm hệ thống máy tính và các hệ thống công nghệ liên quan khác) cùng với các chính sách, quy trình, quy định của ngân hàng.

­ Rủi ro kinh doanh (business risk) bao gồm các rủi ro liên quan đến chính sách vĩ mô của môi trường kinh doanh, hệ thống tài chính, hệ thống luật pháp, hạ tầng tổng thể ngành tài chính và hệ thống thanh toán, rủi ro quốc gia.


­ Rủi ro sự kiện (event risk): Rủi ro sự kiện bao gồm các loại rủi ro ngoại sinh mà nếu xảy ra sẽ ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng, bao gồm các sự

kiện đặc biệt như rủi ro chính trị, rủi ro dây chuyền, khủng hoảng tài chính,

khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng và các rủi ro ngoại sinh khác.


1.1.5. Lãi suất tín dụng‌


1.1.5.1. Định nghĩa


Lợi tức tín dụng là một khoản tiền mà người đi vay phải trả cho người cho vay ngoài phần vốn gốc ban đầu sau một thời gian sử dụng vốn vay (số tiền lãi) [V26]

Nếu vốn được coi là một hàng hóa mua bán trên thị trường thì lợi tức chính là giá cả được hình thành trong quá trình mua bán vốn vì nó phải trả cho giá trị sử dụng của vốn vay. Lợi tức tín dụng biến động theo quan hệ cung ­ cầu trên thị trường vốn như giá cả hàng hóa thông thường. Nhưng lợi tức tín dụng chỉ là hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay mà theo mức đó là hình thái giá cả phi lí vì nó chỉ trả cho giá trị sử dụng mà không phải là quyền sở hữu cũng không phải là quyền sử dụng vĩnh viễn mà chỉ là trong một thời gian xác định. Hơn nữa, lợi tức tín dụng cũng không phải là biểu hiện bằng tiền của giá trị vốn vay như giá cả hàng hóa thông thường mà nó độc lập tương đối hay nhỏ hơn nhiều so với giá trị vốn vay.

Lãi suất tín dụng là tỷ lệ phần trăm giữa số lợi tức tín dụng (tiền lãi) thu được và tổng số tiền cho vay trong một đơn vị thời gian nhất định. Lãi suất tín dụng được tính theo tháng hoặc năm.


Công thức tính:



Lãi suất trong kỳ =

Lợi tức thu được Tổng số tiền cho vay


x 100%


Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ của toàn xã hội vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi chúng ta và có những hệ quả quan trọng đối với “sức khỏe” của nền kinh tế. Nó có tác động đến những quyết định cá nhân như chi tiêu hay để dành, đầu tư bất động sản, chứng khoán hay gửi tiết kiệm. Lãi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp hoặc của các gia đình như dùng vốn để đầu tư mua thiết bị mới của các nhà máy hoặc để gửi tiết kiệm trong ngân hàng.


Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến một số phạm trù kinh tế khác. Nó đóng vai trò như một đòn bẩy kinh tế trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể sử dụng vốn (người vay vốn) với chủ thể sở hữu vốn (người thừa vốn) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lãi ở thị trường vốn người mua người bán rất quan tâm đến giá cả tiền tệ. Đó chính là lãi suất hay giá cả quyền sử dụng vốn trong một thời kỳ nhất định.

1.1.5.2. Các loại lãi suất tín dụng.


(i) Căn cứ vào tiêu thức quản lý:


Lãi suất chỉ đạo: là lãi suất do NHTW công bố mục đích để điều tiết lãi suất thị trường. Bao gồm:

­ Lãi suất sàn và lãi suất trần: Là lãi suất thấp nhất và lãi suất cao nhất do NHTW ấn định cho các NHTM, hoặc do NHTM quy định trong hệ thống của nó, trong nghiệp vụ huy động vốn và cho vay, nhằm thống nhất các hoạt động trong nền kinh tế quốc dân [V26].

Lãi suất sàn và lãi suất trần hình thành khung lãi suất, các NHTM xây dựng lãi suất kinh doanh trong phạm vi của khung này.


­ Lãi suất cơ bản: Là lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho các NHTM và tổ chức tín dụng khác ấn định lãi suất kinh doanh [V26].

­ Lãi suất tái chiết khấu: Là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTW đối với các NHTM dưới hình thức tái chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến thời hạn thanh toán [V26].


Lãi suất tái chiết khấu do NHTW

ấn định cho từng thời kì, căn cứ

vào

mục tiêu chính sách tiền tệ. Lãi suất này được dùng để kiểm soát và điều tiết sự biến động lãi suất trên thị trường. Đối với NHTM, lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc để từ đó ấn định lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác. Nó được tính bằng phần trăm mệnh giá của giấy tờ có giá.


Lãi suất kinh doanh:


­ Lãi suất tiền gửi: là lãi suất huy động vốn, dùng để tính lãi phải trả cho người gửi tiền [V26].

Ngày đăng: 02/12/2022